Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016

Chúa Nhật Tuần 13 Thường Niên Năm C


Chúa Nhật Tuần 12 Thường Niên Năm C


THỨ HAI TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN
Mt 7,1-5
"Anh em đừng xét đoán,
để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán.”
(Mt 7,1)
1. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy về sự xét đoán:
Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta tùy theo cách chúng ta xét đoán người khác.
- "Các con đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán". (Mt 7,1)
- "Các con xét đoán thế nào thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy". (Mt 7,2)
Tại sao tôi thích xét đoán người khác?
- Lý do "có vẻ chính đáng" là tôi yêu thích sự thiện, do đó khi thấy người khác không thiện thì tôi lên án.
- Nhưng ngoài lý do "có vẻ chính đáng" ấy ra, còn lý do không chính đáng chút nào mà khoa tâm lý có thể vạch trần ra: Đó là cái tính ác nằm sẵn trong người tôi, làm cho tôi thích "hạ" kẻ khác và cảm thấy sung sướng một cách vô ý thức khi người khác bị "hạ";
Một hôm, Satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương cực kỳ kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nào nhìn vào tấm gương cũng trở thành xấu xí, ghê tợn. Satan nghĩ, có thể đưa tấm gương lên Thiên Đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần. Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thú hơn khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Càng bay tới gần Thiên Đàng thì khuôn mặt của hắn càng xấu xa thê thảm. Và cứ như thế, chưa tới cửa Thiên Đàng mà hắn đã không còn chịu được cái vẻ thô bạo xấu xí của hắn. Thế rồi, tay hắn run lên lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ ra từng mảnh, nát ra như những hạt cát và tung bay tràn lan trên khắp mặt địa cầu. Từ đó trở đi, hễ hạt cát nhỏ đó bám vào được mắt ai thì cứ nằm lỳ mãi ở đó, khiến người ấy chỉ còn thấy toàn là những cái xấu trên thế gian này mà không thấy được điều gì tốt đẹp khác. Đại họa cho con người khởi đầu từ đó.
Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người. Tổ tiên chúng ta thường nói: "Nhân chi sơ tính bản thiện". Như vậy, mọi cái xấu, cái ác đều là do ma quỷ mà ra. Bởi vậy, chúng ta hãy coi chừng!
Đức Giám Mục Fulton Sheen nói: "Tôi thường xét đoán người khác về khuyết điểm gì, thì đó là dấu chính tôi có khuyết điểm đó."
2. Thay vì xét đoán người khác, mỗi người hãy tự lo xét đoán chính mình: "Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái xà trong mắt ngươi. Hãy lấy cái xà trong mắt ngươi ra trước đã" (Mt 7,3).
Chúa bảo, trước khi xét đoán thì hãy tự xét mình trước đã: Hãy lấy cái xà trong mắt ngươi ra trước đã. Hãy tự phê trước rồi sau đó mới phê sau. Tốt hơn là đừng xét đoán.
Trong kho tàng truyện các thánh tu hành, có câu chuyện rất hay của ẩn sĩ Macariô. Ngài qua đời năm 300 ở Ai Cập.
Macariô sống ẩn dật 30 năm trong phòng mình. Suốt trong thời gian đó, có một vị linh mục vẫn đến cử hành thánh lễ trong phòng của ngài. Để cám dỗ và quấy rầy vị tu hành này, ma quỷ xúi giục một người kia đến gặp vị ẩn sĩ Macariô và nói:
- Vị linh mục đến làm lễ mỗi ngày đó chính là một kẻ tội lỗi vì thế không nên cho ông ấy cử hành thánh lễ nữa.
Ẩn sĩ Macariô đáp lại:
- Hỡi con, Kinh Thánh dạy rằng: "Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Nếu linh mục ấy là người tội lỗi, thì Chúa sẽ tha thứ cho cha ấy".
Sau khi nói như vậy, ẩn sĩ Macariô bắt đầu cầu nguyện và đã giải thoát cho người kia khỏi bị quỷ ám.
Khi vị linh mục đến làm lễ, cha ấy vẫn được tiếp đón vui vẻ như thường. Và Thiên Chúa thấy lòng nhân hậu của ẩn sĩ Macariô nên muốn khích lệ ngài bằng một dấu hiệu. Khi vị linh mục tiến lên bàn thờ, thì Macariô thấy một thiên thần từ trời xuống và đặt tay lên đầu vị linh mục và vị này biến thành một cột lửa trước lễ vật thánh.
Trong khi ẩn sĩ Macariô còn ngây ngất trước thị kiến này, thì ngài nghe có tiếng nói:
- Hỡi con người, tại sao ngươi lại ngạc nhiên ngỡ ngàng. Nếu một vua chúa trên trần gian này còn không cho phép thần dân mình xuất hiện trước mặt mình với quần áo nhơ bẩn, thì làm sao quyền năng của Thiên Chúa lại chấp nhận cho người cử hành Mầu Nhiệm Thánh mà ô uế trước vinh quang trời cao. Ngươi đáng được chứng kiến sự kiện này vì ngươi đã không chỉ trích vị linh mục.
Viện phụ Pineng, trong truyện các thánh tu hành, cũng đã trả lời cho một đan sĩ hỏi ngài xem có cần phải che tội cho người anh em mình không? Ngài đáp:
- Chính trong lúc chúng ta che tội cho người anh em chúng ta, thì Chúa cũng che tội cho chúng ta như vậy.
Mẹ Têrêsa bảo: "Đức Giêsu khuyến khích ta đừng xét đoán ai. Cố đừng xét đoán người khác. Nếu bạn xét đoán người khác thì bạn không thể nào yêu họ được."

THỨ BA TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN
Mt 7,6.12-14
"Vậy tất cả những gì anh em
 muốn người ta làm cho mình,
thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.”
(Mt 7,12)
Đoạn Tin Mừng này gồm 3 giáo huấn:
1. "Đừng lấy của thánh mà vất cho chó.” (Mt 7,6).
Một vị linh mục đang chăm chú đọc sách, trước mặt ngài là một chàng thanh niên tự xưng là vô thần. Anh ta quan sát từng cử chỉ của vị linh mục và mở đầu cuộc tấn công bằng những lời này:
- Tôi không tin bất cứ những gì mà linh mục các ông rao giảng. Các ông có biết là các ông đang bán thuốc phiện ru ngủ quần chúng không?
Bị xúc phạm như thế, nhưng vị linh mục không để lộ bất cứ phản ứng nào. Ngài nhìn người thanh niên với tất cả thông cảm và nói:
- Anh có tin Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật không?
Người thanh niên trả lời như một cái máy:
- Không, thế giới tự nó mà có, vật chất tự biến hóa thành vạn vật.
Vị linh mục mỉm cười hỏi tiếp:
- Anh bạn trẻ, anh là người có học, chắc chắn anh đã có dịp đọc một vài quyển sách đúng đắn về hiện tượng tôn giáo.
Người thanh niên lắc đầu quả quyết:
- Tôi đã và sẽ không bao giờ đọc những thứ sách vô bổ ấy.
Vị linh mục hỏi tiếp:
-Thế anh có đọc Kinh Thánh?
Người thanh niên lại được dịp cho Kinh Thánh chỉ là những chuyện nhảm nhí.
Vị linh mục vẫn tỏ ra thản nhiên trước thái độ gây hấn của người thanh niên. Ngài gợi thêm:
- Chắc anh cũng đồng ý rằng, từ 2.000 năm qua, lịch sử của nhân loại đã chịu ảnh hưởng sâu rộng của một người có tên là Giêsu.
Người thanh niên phản đối.
- Anh có bao giờ suy nghĩ về những vấn đề tôn giáo và luân lý trong cuộc sống không?
Người thanh niên la lớn:
- Mất giờ vô ích.
Với ánh mắt vừa buồn bã vừa trìu mến, vị linh mục nhìn người thanh niên hồi lâu rồi chậm rãi nói:
- Anh bạn trẻ! Anh không có vẻ gì là người vô thần cả, mà chỉ là người sống hời hợt nông cạn và thiếu hiểu biết mà thôi.
Vâng, sống với những con người như thế quả là không đem lại cho đời mình một ích lợi gì. Chúa bảo chúng ta đừng mất giờ đối với những con người như thế.
2. "Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con thì chính các con hãy làm cho người ta như thế.” (Mt 7,12)
Một hôm, một phụ nữ đến thăm nhà một người bạn và tình cờ đọc được một câu rất ngông dán trên tủ lạnh của nhà người ấy: "Hãy thực thi sự tử tế một cách càn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa". Bà chép câu này đem về dán ở nhà mình và quyết làm theo. Chồng bà, một giáo viên, thấy câu đó cũng thích và đem chép lên bảng trong lớp học. Một học sinh cũng thấy hay nên chép về cho cha mình. Ông này là biên tập viên của một nhật báo địa phương nên ông lại đưa lên báo. Chẳng mấy chốc, câu nói như vết dầu loang đã lan rộng ra nhiều nơi tại Mỹ và đã thúc đẩy được nhiều cử chỉ đẹp rất "vô nghĩa". Thí dụ tại Chicago, một buổi sáng có một thiếu niên tự động đến từng nhà của những người hàng xóm và cào tuyết trước gara đậu xe; tại Saint Louis, một người đàn ông bình thường rất cau có, nhưng một hôm ông ra đường bị một chiếc xe khác quệt trầy xe ông, ông thò đầu ra khỏi xe, mỉm cười nói "Không có gì đâu"; tại San Francisco, một người đàn bà dừng xe để đóng thuế qua cầu San Francisco, chẳng những cho xe mình mà còn cho một dãy xe phía sau nữa. (Chờ đợi Chúa).
Vâng, nếu mỗi người chúng ta biết làm cho nhau những điều mà chúng ta muốn người khác làm cho mình, thì thế giới này sẽ biến thành một Thiên Đàng cho mọi người kể cả chúng ta.
3. "Hãy qua cửa hẹp mà vào. Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy." (Mt 7,13-14)
Chúng ta hãy suy gẫm một vài sự kiện đã xảy ra ngay trong cuộc sống của chúng ta:
Albert Einstein đến năm lên 4 tuổi mới biết nói, và phải đến năm tuổi mới biết đọc. Thầy giáo đã từng nhận xét về ông như sau: "Chậm phát triển, khó gần, luôn có những ước mơ ngớ ngẩn." Ông từng bị đuổi học và bị từ chối nhận vào trường Bách khoa Zurich, vậy mà ông đã trở thành một nhà bác học nổi tiếng nhất thế giới chưa ai sánh kịp ông.
Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: "Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!"
- Henry Ford nói: "Thất bại chính là cơ hội để bạn khởi đầu lần nữa một cách hoàn hảo hơn".
Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy. Thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào. Con đường hẹp chính là cái giá để trả cho vinh quang thiên quốc của chúng ta.

THỨ TƯ TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN
Mt 7,15-20
"Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt,
cây xấu thì sinh quả xấu.
Cây tốt không thể sinh quả xấu,
cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt.”
(Mt 7,17-18)
1. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta về cách nhận định khách quan. Trước hết, ta cần lưu ý lời dạy này không mâu thuẫn với lời dạy hôm thứ hai là đừng xét đoán người khác.
Xét đoán là chỉ mới thấy một số hiện tượng đã vội kết luận và lên án. Còn nhận định khách quan là căn cứ vào kết quả để biết nguyên nhân.
Xét đoán thì dễ chủ quan, còn nhận định thì khách quan.
Xét đoán thường dễ đưa chúng ta đến việc lên án người khác, còn nhận định thì giúp chúng ta suy nghĩ và lựa chọn ra những bài học sống cho chính mình. Trong cuộc sống, ta không nên xét đoán nhưng phải khôn ngoan nhận định một cách khách quan.
Nhận định khách quan dựa trên tiêu chuẩn "Xem quả để biết cây".
Cha Ông chúng ta thường nói:
"Mua cá thì phải xem mang,
Mua bầu xem cuống, mới toan khỏi lầm.
Con người muốn biết thâm tâm,
Nhìn vào công việc, chẳng lầm mảy may".
Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi:
- Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?
Người xem tướng thưa rằng:
- Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn người ta mà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cẩn, biết giữ phép nước thì thần đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng.
Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.
Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hoặc dở.
Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất đời Chiến Quốc.
Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai?
2. Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Độ là cha Anthony de Mello có kể câu chuyện dụ ngôn: Hai vợ chồng kia lấy nhau đã nhiều năm mà không được một đứa con nào cho vui cửa vui nhà. Năm ấy có một vị tư tế đến thăm, ông này đã được họ giúp đỡ nhiều lần. Sau khi đã cho vị tư tế ăn uống no nê, hai vợ chồng đã xin với ông:
- Khi ngài lên Đền thờ, làm ơn cầu nguyện với thần cho vợ chồng tôi có được đứa con.
Sau đó, vị tư tế lên đền thờ. Ông cầu nguyện cho vị ân nhân như sau:
- Tâu lạy Thần Linh, vợ chồng người đó rất tử tế với con, xin ngài thương xót họ và cho họ có con để cho vui cửa vui nhà.
Vị thần trả lời một cách nghiêm nghị và dứt khoát:
- Theo như số phận đã định, thì gia đình đó không bao giờ có con.
Năm năm sau, vị tư tế đó lại lên đường đi hành hương một lần nữa và cũng dừng lại ở gia đình ấy. Thấy có hai đứa bé đang nô đùa trước cổng nhà, ông hỏi:
- Con ai vậy?
Và người cha đáp:
- Con chúng tôi đấy.
Thấy vị tư tế bỡ ngỡ, người đàn ông nói:
- Năm năm trước, khi ngài từ biệt chúng tôi thì có một vị nổi tiếng thánh thiện đã đến làng này, chúng tôi đón tiếp ông, ông đã chúc lành cho hai vợ chồng chúng tôi và những đứa bé này là kết quả của sự chúc lành đó.
Nghe thế vị tư tế hối hả lên Đền thờ và trách vị thần:
- Tại sao ngài đã bảo tôi là số họ không con, mà bây giờ họ có hai đứa?
Vị thần nghe xong thì cười và nói:
- Có lẽ một thánh nhân nào đã làm như thế, các thánh nhân có thể làm thay đổi số mệnh người đời.
Mẹ Têrêsa nói: "Hãy cố gắng làm sao để cho ân sủng Chúa tác động trong linh hồn chúng ta, bằng cách chấp nhận tất cả những gì Ngài trao ban cho và dâng cho Ngài tất cả những gì Ngài muốn lấy đi. Sự thánh thiện đích thực hệ tại ở chỗ thi hành Thánh Ý của Thiên Chúa với nụ cười trên môi".
Vâng, cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác. Một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động mọi người. Chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện, tốt lành để đem lại những hoa trái tốt đẹp cho gia đình chúng ta, cho giáo xứ chúng ta. Trái tốt sinh từ cây tốt; cây tốt sinh trái tốt là lẽ đương nhiên.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên những nhân chứng cho tình yêu Chúa. Amen.

THỨ NĂM TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN
Mt 7,21-29
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy
là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
(Mt 7,21)
1. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc lại một điều quan trọng: phải đem ra thực hành những điều đã nghe:
"Không phải những người nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai thực hiện ý Cha Thầy trên Trời thì mới được vào Nước Trời” (Mt 7,21).
Kẻ nghe và thực hành thì giống như người xây nhà trên đá vững chắc, kẻ chỉ nghe mà không thực hành thì giống như người xây nhà trên cát.
Mới đây, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ nói về sức khỏe con người đã đồng ý với nhau rằng, để sống khỏe, sống an vui thì mỗi ngày phải tập thể dục đều đặn, ăn uống cách quân bình, và nhất là thực hành việc tốt cho kẻ khác. Đó là quan điểm căn bản mà hiện nay các bác sĩ Hoa Kỳ thường khuyên các thân chủ đến khám bệnh.
Chính vì thế mà hiện nay, để đề phòng bệnh, các bác sĩ, những nhân viên phụ trách về sức khỏe, đang cố gắng cổ võ một phong trào sống và làm việc tốt, quan tâm đến việc phục vụ tha nhân để phòng bệnh. Các nhà nghiên cứu quan sát thêm, tại sao làm việc tốt cho kẻ khác lại giúp cho chính đương sự sống an vui không bệnh hoạn.
Bác sĩ Highchery vừa qua đời, đã kể lại kết quả công việc nghiên cứu lâu dài của ông về điểm này như sau: khi đương sự làm việc để phục vụ kẻ khác thì nhận lại niềm vui, lòng biết ơn nồng nhiệt của người thụ ân. Cảm nghiệm được niềm vui và lòng biết ơn này, tạo ra nơi cơ thể người thi ân một cảm giác ấm áp. Cảm giác ấm áp này lại kích thích cơ thể bài tiết ra thêm nhiều chất kháng tố, chống lại những xâm nhập của vi trùng bệnh và làm cho đương sự cảm thấy rất thoải mái, quên hết những ưu phiền.
Để thử nghiệm nguyên tắc làm việc tốt để chữa bệnh và phòng bệnh, bác sĩ Horis tại bệnh viện của đại học California ở San Francisco đã khuyến khích các bệnh nhân hãy làm việc tốt giúp đỡ lẫn nhau để mau lành bệnh. Kết quả trông thấy được là những bệnh nhân nào sẵn sàng làm việc tốt cho kẻ khác thì mau lành bệnh hơn là các bệnh nhân ích kỷ, sống khép kín trong những âu lo phiền muộn riêng mình.
2. "Những ai thực hiện ý Cha Thầy trên Trời thì mới được vào Nước Trời” (Mt 7,21).
Năm 1971, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã loan báo việc trao giải thưởng Gioan 23 cho mẹ Têrêsa thành Calcutta với những lời lẽ như sau: "Giải thưởng được trao cho một nữ tu khiêm tốn, âm thầm, nhưng không lọt qua được đôi mắt quan sát của những ai đã chú ý đến công việc phục vụ bác ái cho những người nghèo. Nữ tu có tên là Têrêsa thành Calcutta. Từ 20 năm đã qua, trên khắp các nẻo đường đất nước toàn cầu, nữ tu thực hiện một cách tuyệt diệu sứ mạng tình thương đối với những người cùi, những kẻ già lão bị bỏ rơi và những trẻ em mồ côi".
Đây là bí quyết phục vụ người nghèo của mẹ: "Bí quyết đời sống tôi rất đơn sơ. Đó là cầu nguyện. Trong lời cầu nguyện, tôi được phúc say mê yêu mến Chúa Kitô và tôi hiểu được rằng, cầu nguyện là yêu mến Chúa và thực hành Lời Chúa. Cầu nguyện giúp tôi nhớ lại và sống Lời Chúa phán: "Ta đói, các con cho Ta ăn, Ta đau yếu, bị cầm tù, các con đã đến viếng thăm.” (Mt 25,35).
Có lần mẹ đã phát biểu: tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa tươi nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi".
Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùngnhững đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng, công việc mẹ và các nữ tu của mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan.
Vâng! Tin Mừng phải được thể hiện qua cuộc sống, đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ. 
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là tấm Bánh Thánh
nuôi dưỡng cho con,
Nhưng con lại có thể
bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là Chén Máu Thánh
bổ sức cho con,
Nhưng con lại có thể quảng đại
mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới thật sự là đường
Nhưng con lại có thể
chỉ đường cho anh em con bước đi.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là ánh sáng,
Nhưng con lại có thể làm cho
ánh mắt anh em con
thêm sáng ngời long lanh. Amen.

THỨ SÁU TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN
Mt 8,1-4
"Người giơ tay đụng vào anh và bảo:
‘Tôi muốn, anh sạch đi.’
Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.”
(Mt 8,3)
1. Hôm nay, Chúa Giêsu làm phép lạ chữa một người mắc bệnh phong cùi.
Trong những chuyến đi diễn thuyết để kêu gọi giúp đỡ những người phong cùi trên khắp thế giới, vị đại ân nhân của họ là Raoul Folereau thường kể câu chuyện như sau: Tại một thị trấn nọ, có một người đàn ông được mọi người yêu mến bỗng ngã bệnh. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nghi ngờ...vâng chỉ nghi ngờ thôi…nghi ngờ ông mắc bệnh phong cùi. Và kể từ đó người ta không còn thấy ông ra đường nữa. Ngay cả ở trong nhà, ông cũng không còn được tự do đi lại. Gia đình ông đã giam ông trên giường. Khung trời còn lại của ông chính là tấm mùng. Nhưng một ngày nọ, người đàn ông này đã trốn ra khỏi nhà. Không may ông bị bắt lại. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau đó một lần nữa, ông lại trốn và lần này thì ông trốn thoát. Ông trốn không phải để được sống tự do, mà là để tự vẫn. Sau khi ông chết, người ta đưa xác ông đi giảo nghiệm, và kết quả cho thấy ông không hề mắc bệnh phong cùi!
Kể lại câu chuyện trên đây, ông Raoul Folereau muốn nêu bật nỗi khổ tâm của những người mắc bệnh phong cùi. Nỗi đau đớn trong thể xác có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với sự ruồng bỏ, mà xã hội ở bất cứ thời đại nào cũng dành cho họ.
2. Vâng, bệnh phong cùi làm cho người mắc bệnh trở thành một người tuy còn sống nhưng kể như đã chết. Không phải ai cũng được khỏi nhờ phép lạ.
Tuy nhiên, cũng có những con người, dầu mắc bệnh này nhưng cũng rất can đảm. Xin lấy một thí dụ:
Chị Véronique, một người Pháp, 55 năm bị mắc bệnh phong Hansen, 20 năm bị mù lòa.
Dưới đây là một trong những lời nguyện của chị được ghi lại theo tạp chí Prier, xuất bản năm 1979.
Lạy Chúa,
Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả.
Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con.
Ngày trước, con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con.
Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay.
Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con,
Ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con.
Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào,
Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa.
Chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem:
Cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến mức độ nào.
Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn!
Vâng, lạy Chúa! Muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn.
Bởi vì, nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải ra đi vĩnh biệt cõi thế, con cũng sẽ chẳng tiếc hận gì.
Đời con đã được quá ư đầy tràn những điều diệu kỳ tột độ:
Đó là con đã được sống đắm mình trong Tình Yêu,
Đã được Chúa lấp đầy chan chứa bằng Tình Yêu
Vượt quá cả những gì con tim con hằng mong ước.
Ôi lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử quá tốt với bé gái Véronique của Cha.
Và chiều nay, ôi Tình Yêu của con!
con xin dâng lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người phong cùi trên mặt đất.
Xin Cha thương một cách đặc biệt, cả đến những người bị bệnh "cùi tâm hồn"
đang đè bẹp hủy hoại,
Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy.
Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến đời con cho họ,
bởi vì họ cũng là những người anh chị em con.
Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha
Căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến nữa,
Cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh "cùi tâm hồn".
Con là bé gái thân thương của Cha,
Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi,
Như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình.
Cha hãy ôm con vào lòng, như người cha ấp ủ đứa con cưng
trong vòng tay của mình.
Cha hãy nhận chìm con thật sâu xuống tận đáy trái tim Cha,
Cho con được ở đấy
cùng với mọi người thân yêu của con,
Bây giờ và cho đến mãi muôn đời… Amen. (Véronique)
Vâng! Thật hết sức can đảm. Cuộc sống đã trở thành một chứng nhân cho tình yêu. Khó mà tìm được một con người dám sống như vậy trong xã hội hôm nay. Phải nói rằng việc đón nhận những đau khổ với một nụ cười là một việc hết sức quí hiếm mà chúng ta có thể gặp. Chỉ có những tâm hồn biết hiến dâng trọn vẹn mới có thể sống được như thế. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được can đảm đón nhận tất cả những gì Chúa gửi đến với con tim tràn đầy yêu mến, để chúng ta hiểu được lời mà thánh tông đồ đã nói: "Tất cả đều là hồng ân". Amen.

SINH NHẬT
THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
Lc 1,57- 80
A. Hôm nay Giáo hội tưởng niệm ngày sinh của một con người mà đã có lần Chúa Giêsu ca ngợi là: “Người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ.” (Mt 11,11)
Vâng! Một con người đã được sinh ra trên trần thế.
Vào một buổi trình diễn văn nghệ nọ, trong số đó có những người thợ mỏ, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ… đang dự buổi trình diễn, người ta bỗng nghe thấy tiếng khóc của một đứa trẻ con. Bỗng từ trong đám người thợ mỏ, người ta thấy một người có thân hình vạm vỡ, đầu tóc rậm rì, ông đứng lên ghế la lớn:
- Yêu cầu ban nhạc tạm ngưng một lúc, để chúng tôi nghe tiếng khóc của đứa bé. Biết bao nhiêu năm rồi tôi chưa được nghe những âm thanh kỳ diệu ấy.
Thế là cả ban nhạc và các ca sĩ đều dừng lại và tiếng đứa bé khóc càng lớn hơn. Người ta thấy những giọt nước mắt lăn trên gò má của những người xa vợ, xa con, xa chồng…
Đại thi hào Victor Hugo của Pháp đã có lý khi nói: “Không gì buồn thảm cho bằng một ngôi nhà không có tiếng cười, tiếng khóc của những trẻ thơ”. Trẻ thơ là niềm vui, là hy vọng của con người. Người Mỹ thường nói: “Mỗi một trẻ thơ được sinh ra đều có thể làm Tổng Thống tương lai của Hoa kỳ”.
Thật thế, mỗi một đứa trẻ sinh ra đều là niềm vui, niềm hy vọng cho gia đình, cho dân tộc, cho quốc gia.
Quả thật! không kể Mẹ Maria, Thánh Gioan Tẩy giả là vị thánh duy nhất được Giáo hội mừng ngày sinh nhật. Ngày sinh của thánh Gioan sẽ loan báo một kỷ nguyên mới cho nhân loại mà Chúa Giêsu sẽ khai mở. Cha của ngài là một người câm, mẹ ngài là một người đàn bà già nua son sẻ. Trong bối cảnh đó, ngày chào đời của Thánh Gioan Tẩy giả loan báo rằng: thời của Đấng Cứu Thế đã đến, thời của sự câm lặng đã trở thành loan truyền của ơn cứu độ. Thời mà sự son sẻ đã trở thành đông con nhiều cháu. Ngày sinh của Gioan Tẩy giả là thời loan báo về ngày cứu độ. Lời loan báo mà Thánh Gioan đã không ngừng hô lớn trong những ngày sau này, ngài chính là tiên tri của Chúa, ngài chính là đấng tiền hô của Chúa.
B. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên tri và sứ giả của mình. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày được tái sinh của mỗi người chúng ta.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là biểu trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”.
C. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con đường Ngài đã đi qua, con đường ấy được Ngài tóm gọn trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.” (Ga 3,30) .
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện một cụ già Ấn Độ như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rượu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!
Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả...nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.

THỨ BẢY TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN
Mt 8,5-17
"Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi,
nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.”
(Mt 8,8)
1. Viên đại đội trưởng này trong bài Tin Mừng hôm nay tuy là người ngoại, nhưng ông đã có một niềm tin mạnh khiến Chúa Giêsu phải ngạc nhiên.
Sách Giáo Lý Công Giáo viết: "Đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc chắn, vì được đặt nền tảng trên Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động "nhờ Đức ái" (Gl 5,6); đức tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta nếm trước niềm vui trên trời. (Số 28)
Niềm tin của viên đại đội trưởng là niềm tin mạnh. Vậy thế nào là niềm tin yếu?
Có một người kia đi biển, tình cờ gặp một trận cuồng phong bão táp. Trận cuồng phong bão tố này đã làm ông sợ đến nỗi muốn ngất đi. Giữa lúc đó thì mắt ông lại thấy như Chúa Giêsu đang đi trên mặt biển tiến về phía ông. Nhớ lại câu chuyện trong Tin Mừng thuở xưa, lúc các tông đồ của Chúa cũng gặp hoàn cảnh tương tự như vậy, ông kêu to: "Lạy Chúa, nếu thật là Ngài, xin hãy cho tôi cũng đi trên mặt nước mà đến với Ngài". Đức Giêsu bảo:
- Hãy lại đây.
Nghe thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ theo, ông nhảy xuống nước tiến về phía Đức Giêsu bất chấp sóng to gió cả.
Đức Giêsu mỉm cười đưa tay đón lấy ông và hỏi:
- Tại sao con nghi ngờ Lời Ta nói, hỡi kẻ kém lòng tin.
Nghĩ mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại.
- Đâu có, con có nghi ngờ Lời Chúa nói bao giờ đâu.
Chúa lắc đầu hỏi:
- Thế tại sao con lại mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ trước khi con tiến về phía Ta?
Nhìn hai vật vô ích trên mình, ông gãi đầu thưa:
- Cái này..., những cái này con mang theo chỉ để phòng hờ!
Xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng ta để chúng ta luôn biết sống theo những Lời Người truyền đạt cho chúng ta hôm nay và mãi mãi.
2. Còn đâu là niềm tin mạnh?
Ông đại đội trưởng hôm nay được Chúa khen là có niềm tin mạnh. Nếu Chúa Giêsu đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng, chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của đại đội trưởng này còn mạnh hơn nhiều: Ông tin rằng, Chúa Giêsu chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã nói lên: "Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế" (Mt 8,10).
Nữ thủ tướng Margaret Hilda Thatcher sinh ra tại một thị trấn nhỏ của Anh. Từ nhỏ, bố của Margaret đã giáo dục cô bé rất nghiêm khắc. Ông thường xuyên nói với cô những câu như: “Cho dù làm bất cứ việc gì cũng phải tranh làm đầu tiên, tuyệt đối không được đứng sau người khác. Cho dù ngồi xe bus cũng phải ngồi hàng ghế đầu. Hơn nữa, tuyệt đối không được phép nói “khó quá” hay “con không làm được”.
Quả thực đối với cô bé Margaret, yêu cầu như vậy là quá nghiêm khắc. Nhưng có điều, cũng chính vì sự giáo dục nghiêm khắc của bố như vậy nên Margaret đã hình thành thái độ học tập tích cực. Mỗi khi làm chuyện gì, Margaretluôn mang trong mình niềm tin tất thắng, hơn nữa sẽ cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu của mình. Cô đã dùng hành động thực tế để chứng minh mình phải “vĩnh viễn ngồi ở ghế hàng đầu”.
Hồi Margaret học đại học, nhà trưởng đề ra kế hoạch dạy tiếng Latinh trong vòng năm năm. Kết quả chỉ trong một học kỳ, Margaret đã học xong hết, hơn nữa thành tích thi lại rất cao. Cô đã xuất sắc đứng đầu. Margaret không chỉ có thành tích xuất sắc mà còn tích cực tham gia thể thao, ca hát, diễn thuyết và những hoạt động khác của trường. Cô đã trở thành học sinh ưu tú của trường. Giảng viên đại học của Magaret đã từng nói: “Margaret là học sinh xuất sắc nhất của trường chúng tôi từ khi thành lập đến nay. Cô bé lúc nào cũng tự tin, luôn làm tốt mọi chuyện”. Cô đã có một niềm tin mạnh vào cuộc sống và tương lai của mình.
Về sau, Thatcher trở thành một nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử nước Anh, trở thành ngôi sao sáng chói trên vũ đài chính trị Châu Âu.
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.

Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin. Amen.

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Chúa Nhật Tuần 11 Thường niên năm C


THỨ HAI TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 5,38-42
"Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn,
 thì đừng ngoảnh mặt đi." (Mt 5,42)
Chúa Giêsu tiếp tục bàn đến luật trả đũa.
Cựu ước hạn chế sự trả đũa đúng với mức thiệt hại người ta gây cho mình: "mắt đền mắt, răng đền răng". (Mt 5,38) (= Đã có sự công bằng hơn)
Phần Chúa Giêsu, Ngài dạy hoàn toàn không trả đũa. (=Bác ái)
Không trả đũa, đó là thái độ của kẻ mạnh. Chỉ có kẻ yếu mới không đủ can đảm để không trả đũa.
Thánh Antôn tu rừng, người khởi xướng đời sống ẩn tu trong Giáo Hội, có một lần sau khi giảng xong về đề tài bài giảng trên núi, thì có một giáo dân đến hỏi ngài:
- Thưa cha, chúng con phải làm gì để được trở nên hoàn thiện?
Thánh Antôn trả lời:
- Tin Mừng đã dạy: "Ai vả má phải ngươi, hãy đưa má trái cho họ “ (Mt 5,39).
Nhóm giáo dân thưa:
- Điều này khó quá, làm sao thực hiện nổi.
Thánh Antôn nói:
- Nếu không, ít nhất hãy để nguyên má phải và đừng trả đũa, đừng báo thù, hãy tha thứ cho kẻ đã xúc phạm các con.
Nhóm giáo dân vẫn lắc đầu:
- Thưa cha, điều này vẫn quá khó khăn, thật không dễ gì để yên cho người khác xúc phạm đến mình.
Thánh Antôn nghe xong liền quay sang môn đệ và nói:
- Con đi nấu cháo cho những người này ăn đi vì họ quá yếu đuối. Thật, ta còn làm gì được cho các ngươi nữa, ngoại trừ lời cầu nguyện mà thôi.
 Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ những ai có tình thương rất mạnh, mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm mình.
Ngày 4-4-1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hàng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông.
Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc màu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Những ai đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được tinh thần yêu thương tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây ra. Câu chuyện sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú bé da đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy đi phân phát báo cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây, chú bé bất ngờ mót tiểu quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay vào nhà vệ sinh dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để xem một lần cho biết.
Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, em thấy sung sướng. Bất ngờ, Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng nhà vệ sinh mà em đang ở trong đó. Chưa kịp phản ứng gì thì Tom đã bị người da trắng ập tới, đánh Tom một cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Rồi kèm theo với cái đạp lên thân thằng bé là những lời nguyền rủa nó đã dám vi phạm luật lệ của bang Alabama. Theo đó thì người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi dành cho riêng người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King khuyên chú bé Tom da đen:
- Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai thái độ, hoặc là cháu chạy nhanh ra khỏi nhà vệ sinh ấy, rồi nhặt những cục đá lên mà liệng vào người da trắng đã hạ nhục cháu kia, và sau đó cháu chạy về khu vực của người da đen và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày kia, chúng mình sẽ giết sạch những người da trắng.
Nhưng cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng hơn, đó là cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người ta xô té mấy lần trên đường vác Thập Giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ im lặng, chỗi dậy để tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người da trắng kia đã hạ nhục cháu. Cháu Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa-kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!
Có lần Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tâm sự: "Nhiều lúc tôi cảm thấy khó chịu trong lòng vì người ta phỏng vấn, muốn thúc giục tôi nói những chuyện giật gân, trong thời gian lao tù, v.v... Đó không phải mục đích của tôi. Nguyện vọng lớn nhất của tôi là trao lại cho các bạn trẻ một sứ điệp của tình thương và sự thật, của công lý và hòa bình, của tha thứ và hòa giải, để xây dựng."

THỨ BA TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 5,43-48
"Vậy anh em hãy nên hoàn thiện,
như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
(Mt 5,48)
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy cách đối xử với kẻ thù ghét mình:
Khuynh hướng tự nhiên là ta ghét kẻ thù ghét ta.
- Cựu ước không có khoản luật nào dạy yêu thương kẻ thù.
- Còn Chúa Giêsu dạy:
a/ Hãy yêu thương kẻ thù;
b/ Hãy làm ơn cho kẻ thù;
c/ Hãy cầu nguyện cho họ.
Trước kia, phim ảnh thường nói về những chuyện báo thù và còn coi việc báo thù là bổn phận thiêng liêng: con báo thù cho cha, chồng báo thù cho vợ, anh em báo thù cho nhau, bạn bè báo thù cho nhau nhưng gần đây quan điểm như thế không còn được người ta cổ võ nữa. Ngay cả những phim mang nội dung báo thù bây giờ cũng thường kết thúc bằng ý tưởng: báo thù không giải quyết được vấn đề, càng báo thù thì hận thù càng gia tăng chồng chất. Như vậy, chúng ta thấy lương tri con người ngày nay đã thay đổi. Họ đã ý thức được rằng, báo thù không phải là nhiệm vụ thiêng liêng nhưng là một thảm họa.
Dale Carnegie viết: "Thử hỏi tại sao ý muốn "báo thù" lại có hại cho bạn? Theo tờ tạp chí "Life" thì ý muốn đó có thể làm sức khoẻ bạn phải vĩnh viễn suy nhược. Tác giả một bài đăng trong tờ "Life" có viết rằng: "Tính xấu đặc biệt thường thấy trong số những người đau bệnh động mạch là tính thù vặt. Nếu tính xấu này luôn luôn biểu lộ, nó sẽ làm cho bệnh ấy thành kinh niên và có khi thành bệnh đau tim".
Ông kể tiếp: Tôi có một người bạn thân vừa bị một cơn đau tim nặng. Thầy thuốc bắt anh ta phải tĩnh dưỡng và nhất là không được nổi nóng với bất cứ một cớ nào, vì lẽ thầy thuốc nào cũng biết rằng, người đau tim rất có thể chết bất thần khi nổi giận. Chắc bạn chẳng cho là thật? Tôi xin kể một chứng minh. Cách đây mấy năm, một ông chủ hàng cơm tỉnh Spokane, thuộc tiểu bang Washington, đã ngã đùng ra chết sau một cơn thịnh nộ. Đây là bài tường thuật của viên cảnh sát trưởng, mô tả trường hợp xảy ra tai nạn: "Ông William Falkaber 68 tuổi, chủ một tiệm ăn, đã tự giết mình khi đang nổi giận, vì người bếp không nghe lời ông mà cứ uống cà phê trong đĩa chứ không uống bằng tách. Ông ấy nổi khùng vác súng lục đuổi người bếp, rồi bỗng ông ngã vật ra chết thẳng, tay hãy còn nắm chặt khẩu súng. Viên y sĩ nhà nước đến khám nghiệm tử thi, tuyên bố ông đứt mạch máu vì "thịnh nộ". (Quẳng gánh lo đi và vui sống)
Chúng ta đừng quên Lời Chúa Giêsu dạy: "Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con” (Mt 5,44).
 Chúa Giêsu dạy ta 3 cấp độ đối xử với họ: yêu thương, làm ơn, cầu nguyện. Nếu ta chưa yêu thương được thì hãy cố gắng lấy ơn mà báo oán. Nếu như vẫn chưa làm thế được thì tối thiểu hãy cầu nguyện cho họ.
Tình yêu thương là một ngọn nến, vừa chiếu sáng người khác, lại chiếu sáng cho bản thân. Cống hiến một chút tình yêu thương, thì chắc thế giới này sẽ chứa chan những tình cảm ấm áp. (Vô danh)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con một tâm hồn quảng đại.
Một quả tim tràn đầy yêu thương,
một cái nhìn khoan dung nhân hậu
để con luôn biết cảm thông thay cho chấp nhất,
tha thứ thay cho kết án,
yêu thương thay cho hận thù,
đem niềm vui nâng đỡ hy vọng
thay cho những cố chấp hẹp hòi,
xóa tan nỗi buồn tuyệt vọng đơn côi
thay cho những tị hiềm nhỏ nhoi
để trong mọi nơi mọi lúc,
cả trong những lúc nhục nhã đớn đau vì người khác,
con vẫn bình tĩnh can đảm và thưa với Chúa:
Lạy Chúa, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. (Hosanna)

THỨ TƯ TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,1-6.16-18
"Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng,
 chớ có phô trương cho thiên hạ thấy.
 Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời, ban thưởng.” (Mt 6,1)
1. Trong số các việc đạo đức, người Do Thái rất coi trọng 3 việc này: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Nhiều người làm việc đó chỉ nhằm mục đích để được tiếng là đạo đức, cho nên họ làm cho người ta thấy mà khen họ. Chúa Giêsu gọi đó là giả hình.
Ngài dạy các môn đệ khi làm việc đạo đức, chỉ nên nhắm vào việc làm vui lòng Cha trên trời mà thôi, cho nên hãy làm cách kín đáo.
Người ta kể một câu chuyện vui như sau:
Anh Guton Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của mình vào sổ tay, đến ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước tòa Chúa và trình lên Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng cộng tất cả là 50.000 việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang nhưng Ngài không phản ứng gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào đó hồi lâu rồi nói với anh.
- Con nói là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của Ta thì chỉ có một việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta mà phải trở lại trần gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta xét.
Anh Guton Boris vội vã thanh minh.
- Thưa Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con ghi ngay vào sổ. Quả thật tất cả là con đã làm 50 ngàn việc lành trong suốt đời sống con ở trần gian. Tại sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc kia thì sao.
Bấy giờ, Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:
- Này con, con đã làm 50 ngàn việc tốt nhưng với ý khoe khoang chứ không phải vì ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất con làm vì ý ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu tiên. Ý ngay lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm không có giá trị gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người khen ngợi, vì thế 49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.
Vâng, con người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được Chúa.
2. “Cha của anh Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh” (Mt 6,6b).
Trong một bài tạp bút của báo Tuổi Trẻ số ra chủ nhật đầu tháng 10/1998, tác giả Uông Thế Biển có ghi lại một kinh nghiệm như sau:
Chuyện xảy ra cách đây đã hơn mười năm. Ngày ấy, tôi làm lục lâm vượt sông Nghệ An đi buôn bè gỗ đường dài. Lần đầu và lần sau, người đưa đường cho tôi là Văn Suối, người dân tộc. Trong cuộc luồn rừng với tôi, Suối là cuốn tự điển sống về rừng. Anh thuộc tên từng loại côn trùng, thảo mộc, và với anh, rừng là cuộc sống, là máu thịt của anh.
Trời ngả sang chiều, chúng tôi dừng chân trong căn lều từ lâu đã bị bỏ hoang. Căn lều đã siêu vẹo, lưng lửng trên bếp có một ống đứa đựng muối còn sạch sẽ, trong đó vẫn còn một dúm muối khô như ai đó vừa bốc bỏ vào. Tôi và Suối mở cơm nắm ra ăn. Vì mệt, nên chúng tôi chỉ ăn hết phần nửa mo cơm. Theo thói quen, tôi định hất phần cơm còn lại đi nhưng Suối giằng lấy. Tôi nhìn anh gói ghém lại phần cơm và trèo lên bên dưới mái lều, anh không quên bốc một nắm muối mang theo cho vào ống đứa, và bỏ lại bên hòn đá năm bảy que diêm.
Thấy tôi ngạc nhiên, Văn Suối giải thích "Lần đầu tiên đi rừng, cậu không hiểu là phải. Đây là tập quán của những người quanh năm sống gắn bó với rừng: nắm cơm thừa, vài ba hạt muối, đôi lúc đã cứu được cả mạng sống người đi lạc đường, một viên ký ninh cắt tạm cơn sốt, một que diêm có thể đốt lên ngọn lựa sưởi ấm một người lạc trong rừng đang bị cô đơn và sợ hãi đe dọa. Những túp lều hoang trơ trọi giữa rừng núi trùng điệp này là nơi trú chân cho những người lỡ đường giữa mênh mông đại ngàn. Là người đi rừng, ai cũng có thể lâm vào hoàn cảnh như thế".
Bao năm đã qua, tôi vẫn không quên được lời của Văn Suối, người bạn chỉ chung một chuyến đi, và ấn tượng về mục đích đẹp dành cho những người bạn rừng vẫn mãi theo tôi...
Nét đẹp của người bạn rừng trên đây hẳn phải là sự quan tâm đến người khác. Cử chỉ anh còn đẹp hơn nữa vì được thực thi trong một nơi ẩn khuất, không chờ đợi một đáp trả nào. Cử chỉ ấy gợi lại tinh thần vô vị lợi mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các Kitô hữu.
Lạy Chúa, trong mọi sự, xin cho chúng con biết làm sáng lên hình ảnh của Chúa bằng lòng quảng đại và hy sinh vô vị lợi của chúng con.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy chúng con biết phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương. (Hosanna).

THỨ NĂM TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,7-15
Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì,
trước khi anh em cầu xin
.
(Mt 6,8)
Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện:
1. Khi cầu nguyện không cần nhiều lời: lý do là Chúa Cha biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta nói ra.
Mẹ Têrêsa nói: "Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân gửi phận nơi bàn tay Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng Ngài từ sâu thẳm tấm lòng chúng ta."
Mẹ Têrêsa khuyên các nữ tu của Mẹ "Hãy yêu mến việc cầu nguyện".
Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện để có thể được ân sủng của Chúa.
Đức Cha Tihamer Toth kể:
Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:
Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bãNgười học trò hỏi:
- Tại sao thầy buồn thế?
- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa .
- Bộ ông ta khùng ư ?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi .
Hãy cầu nguyện để có thể hiểu Chúa đã yêu thương chúng ta thế nào, và để ta cũng có thể yêu thương kẻ khác giống như vậy.
2. Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa.
Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại.
Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiểu việc cầu nguyện với Chúa như thế nào.
Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
Thánh Ignatiô Loyola nói: "Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo".
Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: "Lạy Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa".
Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
Trong tác phẩm: "Năm chiếc bánh và hai con cá" Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, trang 21 có kể câu chuyện sau đây: Câu chuyện về ông già Jim.
- Mỗi ngày cứ vào lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Sự việc đó làm ông từ giữ nhà thờ rất thắc mắc nên theo dõi. Rồi một hôm ông từ mạnh dạn chặn ông Jim lại và hỏi:
- Ngày nào ông cũng vào nhà thờ làm gì vậy?
- Tôi đến để cầu nguyện.
- Không thể được! Cầu nguyện gì chỉ trong 2 phút?
- Tôi vừa già, vừa dốt. Tôi cầu nguyện theo kiểu của tôi!
- Ông nói gì với Chúa?
- Tôi cầu nguyện: "Giêsu, có Jim đây!" rồi tôi về.
Vâng! Đó là lời cầu nguyện thật đơn sơ nhưng thật cảm động.
Và đây câu chuyện ông lão nhà quê được kể lại trong hạnh thánh Gioan Maria Vianney.
Hàng ngày ngồi ở tòa giải tội, cha sở họ Ars luôn nhìn thấy một ông lão ghé vào nhà thờ mỗi chiều sau khi đã lam lũ suốt ngày ngoài đồng. Ông luôn quì ở hàng ghế ấy. Quì một chút rồi ông lại lặng lẽ đi ra, y như lúc ông vào. Một hôm, ngài gọi ông lại và hỏi:
- Ông ơi, chiều nào tôi cũng thấy ông ghé nhà thờ, quì nguyên một chỗ, ngày nào cũng vậy, mà không thấy miệng ông mấp máy đọc kinh gì cả. Ông quì đó làm gì vậy?
Ông lão tủm tỉm trả lời:
- Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, rồi ra về.
Đây là lời cầu nguyện của thánh Augustinô.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con biết con,
Xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
Quên đi chính bản thân,
Yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
Biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
Tất cả những gì xảy đến cho con
Và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con luôn yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con luôn được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
                    Thánh Augustinô.

THỨ SÁU TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,19-23
 "Vì kho tàng của anh ở đâu,
thì lòng anh ở đó.” (Mt 6,21)
1. Hai cụm từ quan trọng trong đoạn Tin Mừng hôm nay là "Kho Tàng" và "Con mắt".
Kho tàng tượng trưng cho những giá trị mình coi trọng. Chúa dạy đừng tích trữ kho tàng dưới đất nhưng hãy tích trữ kho tàng trên trời (tức là những việc lành) vì chúng rất bền vững, an toàn, không bao giờ hư mất.
Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Ai có lương tâm lành mạnh thì toàn thể cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại, ai mà lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống người đó sẽ tối đen.
Vâng! Tất cả mọi kho tàng ở dưới đất đều không an toàn.
Công Chúa Diana mang một chiếc nhẫn kim cương trị giá 205 ngàn Mỹ kim, tương đương với tiền Việt Nam là 3 tỷ 71 triệu đồng; và đám cưới của cô với hoàng tử Charles nước Anh tốn hết 3 triệu 500 ngàn Mỹ kim, tương đương với 52 tỷ 500 triệu đồng Việt Nam, với 2700 khách danh dự. Vậy mà tổ ấm đắt giá đó đã tan vỡ sau 15 năm tình lận đận. Bị tử nạn xe và được chôn cất, công Chúa Diana không mang theo nhẫn kim cương cũng không mang được một Mỹ kim nào. Trong hòm cô hôm đó, chỉ có xâu chuỗi của mẹ Têrêsa thành Calcutta đã tặng cô mà thôi. Khi chết, vua chúa hay anh ăn mày cũng đều như nhau cả. Nhà phú hộ trong Tin Mừng chỉ hưởng được mấy chục năm sung sướng, nhưng anh ăn mày Lazarô lại được sung sướng đời đời: không biết ai khôn hơn ai?
2. "Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đó” (Mt 6,21).
Một trắc nghiệm giúp tôi biết kho tàng của tôi ở đâu, đó là nhớ xem những khi cầu nguyện lo ra, những khi vừa bừng mắt thức dậy và những lúc ngồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi thường hay nghĩ tới gì? Nhớ tới ai?
Ngày kia, có một người gặp một vị tu hành đi qua làng, người này vội chạy theo và nài xin vị tu hành:
- Xin ngài cho tôi viên ngọc quí trong bị của ngài.
Vị tu hành ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại hỏi xin tôi viên ngọc quí?
Người kia liền thưa:
- Tối hôm qua tôi nằm mơ thấy có một ông tiên bảo tôi là, sẽ có một vị tu hành, mang theo một viên ngọc quí đi ngang qua làng anh, nếu xin được viên ngọc quí ấy, thì anh sẽ là người sung sướng nhất trên đời này. Ngài là người tu hành, nên đâu có cần đến những thứ phàm tục này. Vậy xin ngài thương tôi và gia đình tôi, cho tôi viên ngọc quí của ngài để tôi nuôi sống vợ con tôi.
Vị tu hành đáp:
- Quả thực tôi không có viên ngọc nào cả.
Và để cho người kia tin, vị tu hành đưa bị của ông ra cho người kia xem. Mở bị ra, người kia sáng mắt lên rồi hô to:  
- Đây thôi, viên ngọc quí khổng lồ như thế này mà ngài nói là không có.
Vị tu hành ngạc nhiên nói:
- Đó là cục đá mà ông nói là viên ngọc ư? Cục đá này tôi lượm được khi xuống suối uống nước. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông.
Người kia sung sướng cầm viên ngọc trong tay, cám ơn vị tu hành rối rít, rồi chạy về nhà, trong lòng thầm nghĩ, thế là từ nay mình sẽ không còn vất vả cày sâu cuốc bẫm nữa, mà nghiễm nhiên trở thành nhà phú hộ. Ý tưởng mình sẽ được giàu sang phú quí nhờ viên ngọc, đã khiến cho người kia không biết cất giữ viên ngọc ở đâu, vì để ở chỗ nào ông ta cũng sợ bị mất. Do đó, chỉ còn cách là giữ nó trong mình. Nhưng giữ nó trong mình thì chẳng còn làm được việc gì, kể cả việc ngủ nghỉ nữa, vì ngủ thì cũng sợ người khác lấy mất.
Sau nhiều ngày đêm lo lắng, thậm chí có đêm phải thức trắng để giữ viên ngọc, người kia cảm thấy có ngọc cũng chẳng sung sướng gì, nên ông cầm viên ngọc đi tìm vị tu hành để trả lại. Người này gặp vị tu hành đang nằm ngủ thật ngon lành dưới một gốc cây. Rón rén đến bên cạnh vi tu hành, người kia lên tiếng:
- Thưa ngài, tôi xin trả lại ngài viên ngọc mà ngài đã cho tôi mấy hôm trước, vì tôi thấy có nó, tôi cũng chẳng sung sướng gì, mà còn khổ nữa là khác nữa. Xin ngài cho tôi viên ngọc mà ngài đang dùng, viên ngọc đã làm cho ngài được thảnh thơi, ngủ rất ngon lành, dù chỉ là ở dưới một gốc cây, viên ngọc đã làm cho ngài được siêu thoát, sự siêu thoát đã khiến cho ngài sẵn sàng cho tôi viên ngọc quí kia, mà không một chút tiếc xót.
Mẩu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào lời căn dặn của Chúa Giêsu: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất... nhưng các con hãy tích trữ cho mình một kho tàng ở trên trời.” (Mt 6,19-20)
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước nhìn lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời. Amen.

THỨ BẢY TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,24-34
"Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai:
ngày mai, cứ để ngày mai lo.
Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
(Mt 6,34)
Bài Tin Mừng này có hai ý lớn:
1. Ý thứ 1: Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt 6,24). Vậy, phải chọn một là làm tôi Thiên Chúa hai là làm tôi Tiền Của.
Abraham từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn ông Abraham đến trước mặt vua Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc?
Abraham trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
- Tâu hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.
- Như vậy thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
- Thế thì hãy tôn thờ nước.
Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra.
- Thế thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế, Abraham trả lời vua Ramos:
- Nếu gió là thần thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua Ramos kiên nhẫn:
- Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời:
- Tâu hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lên.
- Vậy thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói: - Đấng duy nhất tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết, đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
2. Ý thứ hai: Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ) vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
 Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thỏa mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn nữa?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường chỉ hướng làm ăn cho chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp:
- Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời.
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Nghe vậy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui hưởng cuộc sống hay sao?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với chúng ta: "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa “ (Mt 6,33). Phải chăng khi khuyên chúng ta, đừng lo về miếng cơm manh áo, là Chúa đã muốn gieo vào trong đầu óc chúng ta tư tưởng ươn lười, chỉ muốn sống dựa dẫm vào người khác? Chắc chắn là không.
Đây là lời cầu nguyện trích từ sách Gương Chúa Giêsu:
Lạy Chúa, Xin ban cho con ơn Chúa Thánh Thần, để con được vững chí.
Xin ban sức mạnh củng cố con người nội tâm trong con. Xin giải thoát tâm hồn con khỏi những lo lắng, sầu muộn vô ích. Đừng để nó bị quyến rũ theo đuổi một của gì bất luận sang hèn, một hãy làm cho con coi tất cả như là của mau qua.
Lạy Chúa! Xin ban cho con ơn khôn ngoan của trời, để con biết đi tìm cho được Chúa trước hết, cảm mến Chúa trên hết và nhận định mọi cái khác theo trật tự mà Thượng trí Chúa định liệu cho con.

Vì ai đứng vững được trước những giọng nói ngả nghiêng, ai bưng tai được trước những lời phỉnh nịnh, người đó mới thực là khôn. Amen.