THỨ HAI
TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 5,38-42
Mt 5,38-42
"Ai
xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn,
thì đừng ngoảnh mặt đi." (Mt 5,42)
thì đừng ngoảnh mặt đi." (Mt 5,42)
Chúa
Giêsu tiếp tục bàn đến luật trả đũa.
Cựu ước hạn
chế sự trả đũa đúng với mức thiệt hại người ta gây cho mình: "mắt
đền mắt, răng đền răng". (Mt 5,38) (= Đã có sự công bằng
hơn)
Phần Chúa
Giêsu, Ngài dạy hoàn toàn không trả đũa. (=Bác ái)
Không trả
đũa, đó là thái độ của kẻ mạnh. Chỉ có kẻ yếu mới không đủ can đảm để không trả
đũa.
Thánh
Antôn tu rừng, người khởi xướng đời sống ẩn tu trong Giáo Hội, có một lần sau
khi giảng xong về đề tài bài giảng trên núi, thì có một giáo dân đến hỏi ngài:
- Thưa
cha, chúng con phải làm gì để được trở nên hoàn thiện?
Thánh
Antôn trả lời:
- Tin Mừng
đã dạy: "Ai vả má phải ngươi, hãy đưa má trái cho họ “ (Mt 5,39).
Nhóm giáo
dân thưa:
- Điều
này khó quá, làm sao thực hiện nổi.
Thánh Antôn
nói:
- Nếu
không, ít nhất hãy để nguyên má phải và đừng trả đũa, đừng báo thù, hãy tha thứ
cho kẻ đã xúc phạm các con.
Nhóm giáo
dân vẫn lắc đầu:
- Thưa
cha, điều này vẫn quá khó khăn, thật không dễ gì để yên cho người khác xúc phạm
đến mình.
Thánh Antôn
nghe xong liền quay sang môn đệ và nói:
- Con đi
nấu cháo cho những người này ăn đi vì họ quá yếu đuối. Thật, ta còn làm gì được
cho các ngươi nữa, ngoại trừ lời cầu nguyện mà thôi.
Chỉ
người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng
mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ những ai có tình thương rất
mạnh, mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm mình.
Ngày
4-4-1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của
người Mỹ da đen bị bắn chết. Hàng triệu người da đen và những người da trắng hiểu
biết đã thương tiếc ông.
Martin
Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu tranh,
chống cảnh kỳ thị chủng tộc màu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi
người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà
ông đã bị bắn gục.
Những ai
đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được tinh thần yêu thương
tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây ra. Câu chuyện
sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú bé da
đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy đi phân phát
báo cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây, chú bé bất ngờ mót tiểu
quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay vào nhà vệ sinh
dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để xem một lần cho biết.
Được vào
trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, em thấy sung sướng. Bất ngờ, Tom nghe có tiếng
chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng nhà vệ sinh mà em đang ở
trong đó. Chưa kịp phản ứng gì thì Tom đã bị người da trắng ập tới, đánh Tom một
cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Rồi kèm theo với cái đạp lên thân thằng bé
là những lời nguyền rủa nó đã dám vi phạm luật lệ của bang Alabama. Theo đó thì
người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi dành cho riêng người da
trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng
kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King khuyên chú bé Tom da đen:
- Cháu
Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai thái độ, hoặc
là cháu chạy nhanh ra khỏi nhà vệ sinh ấy, rồi nhặt những cục đá lên mà liệng
vào người da trắng đã hạ nhục cháu kia, và sau đó cháu chạy về khu vực của người
da đen và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày kia, chúng mình
sẽ giết sạch những người da trắng.
Nhưng
cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng
hơn, đó là cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người
ta xô té mấy lần trên đường vác Thập Giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ
im lặng, chỗi dậy để tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người
da trắng kia đã hạ nhục cháu. Cháu Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu
thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa-kỳ, chúng ta muốn xây dựng
ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!
Có lần Đức
Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tâm sự: "Nhiều lúc tôi cảm thấy khó
chịu trong lòng vì người ta phỏng vấn, muốn thúc giục tôi nói những chuyện giật
gân, trong thời gian lao tù, v.v... Đó không phải mục đích của tôi. Nguyện vọng
lớn nhất của tôi là trao lại cho các bạn trẻ một sứ điệp của tình thương và sự
thật, của công lý và hòa bình, của tha thứ và hòa giải, để xây dựng."
THỨ BA TUẦN
11 THƯỜNG NIÊN
Mt 5,43-48
Mt 5,43-48
"Vậy
anh em hãy nên hoàn thiện,
như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
(Mt 5,48)
như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
(Mt 5,48)
Hôm nay,
Chúa Giêsu dạy cách đối xử với kẻ thù ghét mình:
Khuynh hướng
tự nhiên là ta ghét kẻ thù ghét ta.
- Cựu ước
không có khoản luật nào dạy yêu thương kẻ thù.
- Còn
Chúa Giêsu dạy:
a/ Hãy yêu
thương kẻ thù;
b/ Hãy làm
ơn cho kẻ thù;
c/ Hãy cầu
nguyện cho họ.
Trước
kia, phim ảnh thường nói về những chuyện báo thù và còn coi việc báo thù là bổn
phận thiêng liêng: con báo thù cho cha, chồng báo thù cho vợ, anh em báo thù
cho nhau, bạn bè báo thù cho nhau nhưng gần đây quan điểm như
thế không còn được người ta cổ võ nữa. Ngay cả những phim mang nội dung báo thù
bây giờ cũng thường kết thúc bằng ý tưởng: báo thù không giải quyết được
vấn đề, càng báo thù thì hận thù càng gia tăng chồng chất. Như vậy, chúng
ta thấy lương tri con người ngày nay đã thay đổi. Họ đã ý thức được rằng, báo
thù không phải là nhiệm vụ thiêng liêng nhưng là một thảm họa.
Dale
Carnegie viết: "Thử hỏi tại sao ý muốn "báo thù" lại có hại cho
bạn? Theo tờ tạp chí "Life" thì ý muốn đó có thể làm sức khoẻ bạn phải
vĩnh viễn suy nhược. Tác giả một bài đăng trong tờ "Life" có viết rằng:
"Tính xấu đặc biệt thường thấy trong số những người đau bệnh động mạch là
tính thù vặt. Nếu tính xấu này luôn luôn biểu lộ, nó sẽ làm cho bệnh ấy thành
kinh niên và có khi thành bệnh đau tim".
Ông kể tiếp:
Tôi có một người bạn thân vừa bị một cơn đau tim nặng. Thầy thuốc bắt anh ta phải
tĩnh dưỡng và nhất là không được nổi nóng với bất cứ một cớ nào, vì lẽ thầy thuốc
nào cũng biết rằng, người đau tim rất có thể chết bất thần khi nổi giận. Chắc bạn
chẳng cho là thật? Tôi xin kể một chứng minh. Cách đây mấy năm, một ông chủ
hàng cơm tỉnh Spokane, thuộc tiểu bang Washington, đã ngã đùng ra chết sau một
cơn thịnh nộ. Đây là bài tường thuật của viên cảnh sát trưởng, mô tả trường hợp
xảy ra tai nạn: "Ông William Falkaber 68 tuổi, chủ một tiệm ăn, đã tự giết
mình khi đang nổi giận, vì người bếp không nghe lời ông mà cứ uống cà phê trong
đĩa chứ không uống bằng tách. Ông ấy nổi khùng vác súng lục đuổi người bếp, rồi
bỗng ông ngã vật ra chết thẳng, tay hãy còn nắm chặt khẩu súng. Viên y sĩ nhà
nước đến khám nghiệm tử thi, tuyên bố ông đứt mạch máu vì "thịnh nộ".
(Quẳng gánh lo đi và vui sống)
Chúng ta
đừng quên Lời Chúa Giêsu dạy: "Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét
các con” (Mt 5,44).
Chúa
Giêsu dạy ta 3 cấp độ đối xử với họ: yêu thương, làm
ơn, cầu nguyện. Nếu ta chưa yêu thương được thì hãy cố gắng lấy ơn mà
báo oán. Nếu như vẫn chưa làm thế được thì tối thiểu hãy cầu nguyện cho họ.
Tình
yêu thương là một ngọn nến, vừa chiếu sáng người khác, lại chiếu sáng cho bản
thân. Cống hiến một chút tình yêu thương, thì chắc thế giới này sẽ chứa chan những
tình cảm ấm áp. (Vô danh)
Lạy Chúa
Giêsu, xin ban cho con một tâm hồn quảng đại.
Một quả
tim tràn đầy yêu thương,
một cái
nhìn khoan dung nhân hậu
để con
luôn biết cảm thông thay cho chấp nhất,
tha thứ
thay cho kết án,
yêu
thương thay cho hận thù,
đem niềm
vui nâng đỡ hy vọng
thay cho
những cố chấp hẹp hòi,
xóa tan nỗi
buồn tuyệt vọng đơn côi
thay cho
những tị hiềm nhỏ nhoi
để trong
mọi nơi mọi lúc,
cả trong
những lúc nhục nhã đớn đau vì người khác,
con vẫn
bình tĩnh can đảm và thưa với Chúa:
Lạy Chúa,
xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. (Hosanna)
THỨ TƯ TUẦN
11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,1-6.16-18
Mt 6,1-6.16-18
"Khi
làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng,
chớ có phô trương cho thiên hạ thấy.
Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời, ban thưởng.” (Mt 6,1)
chớ có phô trương cho thiên hạ thấy.
Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời, ban thưởng.” (Mt 6,1)
1. Trong
số các việc đạo đức, người Do Thái rất coi trọng 3 việc này: bố thí, cầu
nguyện và ăn chay.
Nhiều người
làm việc đó chỉ nhằm mục đích để được tiếng là đạo đức, cho nên họ làm cho người
ta thấy mà khen họ. Chúa Giêsu gọi đó là giả hình.
Ngài dạy
các môn đệ khi làm việc đạo đức, chỉ nên nhắm vào việc làm vui
lòng Cha trên trời mà thôi, cho nên hãy làm cách kín đáo.
Người ta
kể một câu chuyện vui như sau:
Anh Guton
Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của mình vào sổ tay, đến
ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước tòa Chúa và trình lên
Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng cộng tất cả là 50.000
việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang nhưng Ngài không phản ứng
gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào đó hồi lâu rồi nói với
anh.
- Con nói
là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của Ta thì chỉ có một
việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta mà phải
trở lại trần gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta xét.
Anh Guton
Boris vội vã thanh minh.
- Thưa
Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con ghi ngay vào sổ. Quả thật
tất cả là con đã làm 50 ngàn việc lành trong suốt đời sống con ở trần gian. Tại
sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc kia thì sao.
Bấy giờ,
Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:
- Này
con, con đã làm 50 ngàn việc tốt nhưng với ý khoe khoang chứ
không phải vì ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất
con làm vì ý ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu
tiên. Ý ngay lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm
không có giá trị gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người
khen ngợi, vì thế 49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.
Vâng, con
người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được Chúa.
2. “Cha
của anh Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh” (Mt 6,6b).
Trong một
bài tạp bút của báo Tuổi Trẻ số ra chủ nhật đầu tháng 10/1998, tác giả Uông Thế
Biển có ghi lại một kinh nghiệm như sau:
Chuyện xảy
ra cách đây đã hơn mười năm. Ngày ấy, tôi làm lục lâm vượt sông Nghệ An đi buôn
bè gỗ đường dài. Lần đầu và lần sau, người đưa đường cho tôi là Văn Suối, người
dân tộc. Trong cuộc luồn rừng với tôi, Suối là cuốn tự điển sống về rừng. Anh
thuộc tên từng loại côn trùng, thảo mộc, và với anh, rừng là cuộc sống, là máu
thịt của anh.
Trời ngả
sang chiều, chúng tôi dừng chân trong căn lều từ lâu đã bị bỏ hoang. Căn lều đã
siêu vẹo, lưng lửng trên bếp có một ống đứa đựng muối còn sạch
sẽ, trong đó vẫn còn một dúm muối khô như ai đó vừa bốc bỏ vào. Tôi và Suối mở
cơm nắm ra ăn. Vì mệt, nên chúng tôi chỉ ăn hết phần nửa mo cơm. Theo thói
quen, tôi định hất phần cơm còn lại đi nhưng Suối giằng lấy. Tôi nhìn anh gói
ghém lại phần cơm và trèo lên bên dưới mái lều, anh không quên bốc một nắm muối
mang theo cho vào ống đứa, và bỏ lại bên hòn đá năm bảy que diêm.
Thấy tôi
ngạc nhiên, Văn Suối giải thích "Lần đầu tiên đi rừng, cậu không hiểu là
phải. Đây là tập quán của những người quanh năm sống gắn bó với rừng: nắm
cơm thừa, vài ba hạt muối, đôi lúc đã cứu được cả mạng sống người đi lạc đường,
một viên ký ninh cắt tạm cơn sốt, một que diêm có thể đốt lên ngọn lựa sưởi ấm
một người lạc trong rừng đang bị cô đơn và sợ hãi đe dọa. Những túp lều hoang
trơ trọi giữa rừng núi trùng điệp này là nơi trú chân cho những người lỡ đường
giữa mênh mông đại ngàn. Là người đi rừng, ai cũng có thể lâm vào hoàn cảnh như
thế".
Bao năm
đã qua, tôi vẫn không quên được lời của Văn Suối, người bạn chỉ chung một chuyến
đi, và ấn tượng về mục đích đẹp dành cho những người bạn rừng vẫn mãi theo
tôi...
Nét đẹp
của người bạn rừng trên đây hẳn phải là sự quan tâm đến người khác. Cử
chỉ anh còn đẹp hơn nữa vì được thực thi trong một nơi ẩn khuất, không chờ
đợi một đáp trả nào. Cử chỉ ấy gợi lại tinh thần vô vị lợi mà Chúa Giêsu
đòi hỏi nơi các Kitô hữu.
Lạy Chúa,
trong mọi sự, xin cho chúng con biết làm sáng lên hình ảnh của Chúa bằng lòng
quảng đại và hy sinh vô vị lợi của chúng con.
Xin đừng
để chúng con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy chúng con biết phục vụ
trong khiêm hạ và yêu thương. (Hosanna).
THỨ NĂM
TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,7-15
Mt 6,7-15
Cha
anh em đã biết rõ anh em cần gì,
trước khi anh em cầu xin.
(Mt 6,8)
trước khi anh em cầu xin.
(Mt 6,8)
Chúa
Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện:
1. Khi
cầu nguyện không cần nhiều lời: lý do là Chúa Cha biết chúng ta cần
gì trước khi chúng ta nói ra.
Mẹ Têrêsa
nói: "Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân gửi phận nơi bàn tay
Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng Ngài từ sâu thẳm tấm
lòng chúng ta."
Mẹ Têrêsa
khuyên các nữ tu của Mẹ "Hãy yêu mến việc cầu nguyện".
Hãy cầu
nguyện. Hãy cầu nguyện để có thể được ân sủng của Chúa.
Đức Cha
Tihamer Toth kể:
Một triết
gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng
càng bớt cầu nguyện đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ
nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai,
Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ
ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được
Ngài.
Triết gia
không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học
trò hỏi:
- Tại sao
thầy buồn thế?
- Người bạn
của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng
bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa .
- Bộ ông
ta khùng ư ?
- Không
đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ
lo cho tôi mọi thứ tôi cần thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô
cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế
là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con
cũng thế thôi .
Hãy cầu
nguyện để có thể hiểu Chúa đã yêu thương chúng ta thế nào, và để ta cũng có thể
yêu thương kẻ khác giống như vậy.
2. Cầu
nguyện là nói chuyện với Chúa.
Đã nói
chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở
thành độc thoại.
Xin kể ra
đây một ít sự kiện để chúng ta hiểu việc cầu nguyện với Chúa như thế nào.
Khi viếng
Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
Thánh
Ignatiô Loyola nói: "Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có
khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm
với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo".
Còn thánh
Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: "Lạy Chúa, con khẩn cầu
Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng
nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa".
Vua Louis
IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại sao
bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì,
vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là nghe kẻ
khác nói về Ngài.
Trong tác
phẩm: "Năm chiếc bánh và hai con cá" Đức Hồng Y
Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, trang 21 có kể câu chuyện sau đây: Câu chuyện
về ông già Jim.
- Mỗi
ngày cứ vào lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Sự việc đó
làm ông từ giữ nhà thờ rất thắc mắc nên theo dõi. Rồi một hôm ông từ mạnh dạn
chặn ông Jim lại và hỏi:
- Ngày
nào ông cũng vào nhà thờ làm gì vậy?
- Tôi đến
để cầu nguyện.
- Không
thể được! Cầu nguyện gì chỉ trong 2 phút?
- Tôi vừa
già, vừa dốt. Tôi cầu nguyện theo kiểu của tôi!
- Ông nói
gì với Chúa?
- Tôi cầu
nguyện: "Giêsu, có Jim đây!" rồi tôi về.
Vâng! Đó
là lời cầu nguyện thật đơn sơ nhưng thật cảm động.
Và đây
câu chuyện ông lão nhà quê được kể lại trong hạnh thánh Gioan Maria Vianney.
Hàng ngày
ngồi ở tòa giải tội, cha sở họ Ars luôn nhìn thấy một ông lão ghé vào nhà thờ mỗi
chiều sau khi đã lam lũ suốt ngày ngoài đồng. Ông luôn quì ở hàng ghế ấy. Quì một
chút rồi ông lại lặng lẽ đi ra, y như lúc ông vào. Một hôm, ngài gọi ông lại và
hỏi:
- Ông ơi,
chiều nào tôi cũng thấy ông ghé nhà thờ, quì nguyên một chỗ, ngày nào cũng vậy,
mà không thấy miệng ông mấp máy đọc kinh gì cả. Ông quì đó làm gì vậy?
Ông lão tủm
tỉm trả lời:
- Con
nhìn Chúa, Chúa nhìn con, rồi ra về.
Đây là
lời cầu nguyện của thánh Augustinô.
Lạy Chúa
Giêsu,
Xin cho
con biết con,
Xin cho
con biết Chúa.
Xin cho
con chỉ khao khát một mình Chúa,
Quên đi
chính bản thân,
Yêu mến
Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho
con biết tự hạ,
Biết tán
dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì
con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì
con biết nhận từ Chúa
Tất cả những
gì xảy đến cho con
Và biết
chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng
để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa
hãy nhìn con, để con luôn yêu mến Chúa.
Xin Chúa
hãy gọi con, để con luôn được thấy Chúa.
Và để con
hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
Thánh Augustinô.
THỨ SÁU
TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,19-23
Mt 6,19-23
"Vì
kho tàng của anh ở đâu,
thì lòng anh ở đó.” (Mt 6,21)
thì lòng anh ở đó.” (Mt 6,21)
1. Hai
cụm từ quan trọng trong đoạn Tin Mừng hôm nay là "Kho Tàng" và "Con
mắt".
Kho
tàng tượng trưng cho những giá trị mình coi trọng. Chúa dạy đừng tích
trữ kho tàng dưới đất nhưng hãy tích trữ kho tàng trên trời (tức là những việc
lành) vì chúng rất bền vững, an toàn, không bao giờ hư mất.
Con mắt
sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Ai có lương tâm lành mạnh thì
toàn thể cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại, ai mà lương tâm hắc ám thì cả
cuộc sống người đó sẽ tối đen.
Vâng! Tất
cả mọi kho tàng ở dưới đất đều không an toàn.
Công Chúa
Diana mang một chiếc nhẫn kim cương trị giá 205 ngàn Mỹ kim, tương đương với tiền
Việt Nam là 3 tỷ 71 triệu đồng; và đám cưới của cô với hoàng tử Charles nước
Anh tốn hết 3 triệu 500 ngàn Mỹ kim, tương đương với 52 tỷ 500 triệu đồng Việt
Nam, với 2700 khách danh dự. Vậy mà tổ ấm đắt giá đó đã tan vỡ sau 15 năm tình
lận đận. Bị tử nạn xe và được chôn cất, công Chúa Diana không mang theo nhẫn
kim cương cũng không mang được một Mỹ kim nào. Trong hòm cô hôm đó, chỉ có xâu
chuỗi của mẹ Têrêsa thành Calcutta đã tặng cô mà thôi. Khi chết, vua chúa hay
anh ăn mày cũng đều như nhau cả. Nhà phú hộ trong Tin Mừng chỉ hưởng được mấy
chục năm sung sướng, nhưng anh ăn mày Lazarô lại được sung sướng đời đời: không
biết ai khôn hơn ai?
2. "Kho
tàng của con ở đâu thì lòng con ở đó” (Mt 6,21).
Một trắc
nghiệm giúp tôi biết kho tàng của tôi ở đâu, đó là nhớ xem những khi cầu nguyện
lo ra, những khi vừa bừng mắt thức dậy và những lúc ngồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi
thường hay nghĩ tới gì? Nhớ tới ai?
Ngày kia,
có một người gặp một vị tu hành đi qua làng, người này vội chạy theo và nài xin
vị tu hành:
- Xin
ngài cho tôi viên ngọc quí trong bị của ngài.
Vị tu
hành ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại
hỏi xin tôi viên ngọc quí?
Người kia
liền thưa:
- Tối hôm
qua tôi nằm mơ thấy có một ông tiên bảo tôi là, sẽ có một vị tu hành, mang theo
một viên ngọc quí đi ngang qua làng anh, nếu xin được viên ngọc quí ấy, thì anh
sẽ là người sung sướng nhất trên đời này. Ngài là người tu hành, nên đâu có cần
đến những thứ phàm tục này. Vậy xin ngài thương tôi và gia đình tôi, cho tôi
viên ngọc quí của ngài để tôi nuôi sống vợ con tôi.
Vị tu
hành đáp:
- Quả thực
tôi không có viên ngọc nào cả.
Và để cho
người kia tin, vị tu hành đưa bị của ông ra cho người kia xem. Mở bị ra, người
kia sáng mắt lên rồi hô to:
- Đây
thôi, viên ngọc quí khổng lồ như thế này mà ngài nói là không có.
Vị tu
hành ngạc nhiên nói:
- Đó là cục
đá mà ông nói là viên ngọc ư? Cục đá này tôi lượm được khi xuống suối uống nước.
Nếu ông muốn thì tôi biếu ông.
Người kia
sung sướng cầm viên ngọc trong tay, cám ơn vị tu hành rối rít, rồi chạy về nhà,
trong lòng thầm nghĩ, thế là từ nay mình sẽ không còn vất vả cày sâu cuốc bẫm nữa,
mà nghiễm nhiên trở thành nhà phú hộ. Ý tưởng mình sẽ được giàu sang phú quí nhờ
viên ngọc, đã khiến cho người kia không biết cất giữ viên ngọc ở đâu, vì để ở
chỗ nào ông ta cũng sợ bị mất. Do đó, chỉ còn cách là giữ nó trong mình. Nhưng
giữ nó trong mình thì chẳng còn làm được việc gì, kể cả việc ngủ nghỉ nữa, vì
ngủ thì cũng sợ người khác lấy mất.
Sau nhiều
ngày đêm lo lắng, thậm chí có đêm phải thức trắng để giữ viên ngọc, người kia cảm
thấy có ngọc cũng chẳng sung sướng gì, nên ông cầm viên ngọc đi tìm vị tu hành
để trả lại. Người này gặp vị tu hành đang nằm ngủ thật ngon lành dưới một gốc
cây. Rón rén đến bên cạnh vi tu hành, người kia lên tiếng:
- Thưa
ngài, tôi xin trả lại ngài viên ngọc mà ngài đã cho tôi mấy hôm trước, vì tôi
thấy có nó, tôi cũng chẳng sung sướng gì, mà còn khổ nữa là khác nữa. Xin ngài
cho tôi viên ngọc mà ngài đang dùng, viên ngọc đã làm cho ngài được thảnh thơi,
ngủ rất ngon lành, dù chỉ là ở dưới một gốc cây, viên ngọc đã làm cho ngài được
siêu thoát, sự siêu thoát đã khiến cho ngài sẵn sàng cho tôi viên ngọc quí kia,
mà không một chút tiếc xót.
Mẩu chuyện
trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào lời căn dặn của Chúa Giêsu: "Các con
đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất... nhưng các con hãy tích trữ
cho mình một kho tàng ở trên trời.” (Mt 6,19-20)
Lạy Chúa
Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước nhìn lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước nhìn lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải
phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời. Amen.
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời. Amen.
THỨ BẢY
TUẦN 11 THƯỜNG NIÊN
Mt 6,24-34
Mt 6,24-34
"Vậy,
anh em đừng lo lắng về ngày mai:
ngày mai, cứ để ngày mai lo.
Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
(Mt 6,34)
ngày mai, cứ để ngày mai lo.
Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
(Mt 6,34)
Bài Tin Mừng
này có hai ý lớn:
1. Ý
thứ 1: Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt 6,24). Vậy, phải chọn
một là làm tôi Thiên Chúa hai là làm tôi Tiền Của.
Abraham từ
ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa
cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn ông Abraham đến trước mặt vua
Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại sao
ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc?
Abraham
trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
- Tâu
hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.
- Như vậy
thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế,
hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
- Thế thì
hãy tôn thờ nước.
Tâu hoàng
thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra.
- Thế thì
hãy tôn thờ gió.
Nghe thế,
Abraham trả lời vua Ramos:
- Nếu gió
là thần thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua Ramos
kiên nhẫn:
- Vậy thì
hãy tôn thờ con người.
Abraham
trả lời:
- Tâu
hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà vua
giận dữ quát lên.
- Vậy thì
hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng
Abraham nói: - Đấng duy nhất tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết, đó là
Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc
cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì ông vén
mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
2. Ý
thứ hai: Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của
ăn, áo mặc, tuổi thọ) vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết
là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con
người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không
tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo
vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con
người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết
tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại
Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của
mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là
người bắt bóng.
Một
thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm
ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến
hỏi một ngư phủ:
- Sao anh
không đi đánh cá?
Chàng
ngư phủ trả lời:
- Tôi đã
đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu
trả lời chưa được thỏa mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh
không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn nữa?
Thay vì
trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng
thưa ông để làm gì?
Với đầu
óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường chỉ hướng làm ăn cho
chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng
đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể
mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi
từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một
người giàu có.
Chàng ngư
phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên
hỏi tiếp:
- Giàu có
rồi làm gì nữa?
Thấy như
người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời.
- Rồi anh
sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Nghe vậy,
chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế
tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui hưởng cuộc sống
hay sao?
Trong Tin
Mừng hôm nay, Chúa nói với chúng ta: "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa “ (Mt 6,33). Phải chăng khi khuyên chúng ta, đừng lo về miếng cơm manh áo,
là Chúa đã muốn gieo vào trong đầu óc chúng ta tư tưởng ươn lười, chỉ muốn sống
dựa dẫm vào người khác? Chắc chắn là không.
Đây là lời
cầu nguyện trích từ sách Gương Chúa Giêsu:
Lạy Chúa,
Xin ban cho con ơn Chúa Thánh Thần, để con được vững chí.
Xin ban sức
mạnh củng cố con người nội tâm trong con. Xin giải thoát tâm hồn con khỏi những
lo lắng, sầu muộn vô ích. Đừng để nó bị quyến rũ theo đuổi một của gì bất luận
sang hèn, một hãy làm cho con coi tất cả như là của mau qua.
Lạy Chúa!
Xin ban cho con ơn khôn ngoan của trời, để con biết đi tìm cho được Chúa trước
hết, cảm mến Chúa trên hết và nhận định mọi cái khác theo trật tự mà Thượng trí
Chúa định liệu cho con.
Vì ai đứng
vững được trước những giọng nói ngả nghiêng, ai bưng tai được trước những lời
phỉnh nịnh, người đó mới thực là khôn. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét