Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH B

Lời Chúa :  Ga 15,4
 “Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con” (Ga 15,4)
Liên kết với Chúa và liên đới với nhau là hai khía cạnh mà các bản văn Lời Chúa hôm nay cố gắng trình bày trong những bối cảnh cụ thể khác nhau, nhưng tất cả đều qui về một điểm chung nhất là nên một với nhau khi mỗi người nên một với chính Chúa.
Khởi đi từ cây nho, một hình ảnh hết sức quen thuộc với người Do thái, Chúa Giêsu làm nổi bật tính liên kết giữa Ngài, Chúa Cha và các môn đệ:

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Ngày 29/04 Thánh Nữ CATARINA

THÁNH NỮ CATARINA SIENA
1. Tiểu sử
Catarina Benincasa chào đời tại thành Siena vào năm 1347, và gia nhập dòng Ba Đaminh khi còn rất trẻ. Ngài nổi bật về tinh thần cầu nguyện và sám hối. Được thúc đẩy vì tình yêu nồng nàn đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, và Giáo Hoàng Roma, thánh nữ đã hoạt động không biết mệt mỏi cho sự nghiệp bình an và hợp nhất của Giáo Hội, trong những năm tháng gian truân của thời kỳ di tản Avignon. Thánh nữ đã dành rất nhiều thời gian hoạt động tại phủ Giáo Hoàng để thuyết phục Đức Gregoriô XI trở về giáo đô Roma, vì đó mới chính là nơi Đấng Đại Diện Chúa Kitô điều hành toàn thể Giáo Hội. Chỉ vài hôm trước khi qua đời, ngày 29 tháng 4 năm 1380, thánh nữ đã tâm sự rằng: "Nếu tôi qua đời, hãy cho người ta biết rằng tôi chết vì nhiệt tâm với Giáo Hội."
Thánh nữ đã viết rất nhiều thư từ, hiện còn giữ được chừng 400 bức, một số kinh nguyện, ‘những lời than thở,’ và một quyển sách duy nhất là cuốn ‘Đối Thoại.’ Trong quyển sách này, thánh nữ đã ghi lại những lần tâm tình thân mật của mình với Chúa. Người nữ tu dòng Ba Catarina được Đức Piô II tôn phong hiển thánh, và lòng sùng kính ngài mau chóng lan rộng khắp Âu Châu. Thánh nữ Têrêsa Avila nói rằng:"Sau Thiên Chúa, người mà ngài mang ơn nhiều nhất về sự tiến bộ trên đường thiêng liêng là thánh nữ Catarina Siena". Đức chân phúc giáo hoàng Piô IX đã tôn nhận thánh nữ Catarina lên làm quan thầy nhì cho nước Ý (cùng với thánh Phanxicô khó nghèo). Đến năm 1970, Đức Phaolô VI đã tôn phong thánh nữ Catarina Siena danh hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh.
2. Những diểm nổi bật trong cuộc đời của thánh nhân
a/ Trước hết phải kể là: "Lòng yêu mến Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng,(Chúa Kitô dịu hiền trên trần gian)."
Mặc dù không được học hành đến nơi đến chốn (chỉ đủ biết đọc biết viết), và qua đời khi mới 33 tuổi, nhưng thánh nữ Catarina Siena đã có một cuộc đời phi thường với nhiều thành tích, như thể thánh nữ đã rảo bước đến cung thánh muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài là tấm gương tuyệt vời về lòng yêu mến Giáo Hội và Giáo Hoàng Roma, đấng được thánh nữ xưng tụng là Chúa Kitô dịu hiền trên trần gian, cũng như về lòng chính trực và can đảm, khiến nhiều người đương thời phải lắng nghe thánh nữ.
Vào thời kỳ ấy, một trong những thời kỳ rối ren nhất của lịch sử Giáo Hội, các Đức Giáo Hoàng đến ngụ tại thành Avignon ở miền Nam nước Pháp. Còn Roma, trung tâm Kitô Giáo, lại bị để hoang tàn. Chúa tỏ cho Catarina biết các Đức Giáo Hoàng cần phải trở về Roma để khởi sự công cuộc chấn hưng đời sống Giáo Hội. Việc này rất khẩn thiết và được mong đợi từ lâu cho. Vì mục đích ấy, thánh nữ không những đã không biết mệt mỏi để cầu nguyện, thực hành khổ chế, mà còn viết rất nhiều thư cho Đức Giáo Hoàng, các hồng y, và các vị chức sắc trong Giáo Hội.
Thánh nữ Catarina luôn vâng phục và yêu mến Đức Giáo Hoàng Roma. Chị thánh đã viết: "Người nào không tùng phục Chúa Kitô trên trần gian, đại diện Chúa Kitô trên trời, thì không được dự phần vào hiệu quả Máu thánh Con Thiên Chúa"
Thánh nữ không ngừng hối thúc các hồng y, giám mục và linh mục trong công cuộc chấn hưng Giáo Hội và đời sống các tín hữu. Thánh nữ không ngần ngại kêu gọi các ngài hãy nghiêm chỉnh trở về với nhiệm vụ. Lúc nào thánh nữ cũng khiêm tốn và tỏ lòng tôn kính chức phẩm của các giáo sĩ, bởi vì các ngài là những thừa tác viên Mình Máu thánh Chúa Kitô. Thánh nữ chủ yếu viết thư cho các mục tử trong Giáo Hội, vì biết tinh thần đạo đức của đoàn chiên tùy thuộc rất nhiều vào sự sám hối và nếp sống gương mẫu của những vị này.
b/ Thứ đến Thánh nữ đã hiến dâng cả cuộc đời của mình cho Giáo Hội.
Thánh nữ Catarina có một nữ tính rất rõ nét, nhưng đồng thời cũng biểu lộ một khát vọng và một năng lực phi thường, đặc trưng của những người nữ bản lãnh, đảm đương những công việc hy sinh lớn lao và kiên trì dưới chân thập giá Chúa Kitô. Thánh nữ không khoan nhượng trước bất cứ sự nhát đảm nào trong việc phụng sự Chúa Kitô. Ngài tin rằng đang khi phần rỗi các linh hồn bị lâm nguy thì không thể khoan nhượng một cách vô lý. Thái độ khoan nhượng cho sự lạnh nhạt như thế là hoàn toàn không thể chấp nhận, bởi vì thực sự đó là nhượng bộ thói ươn lười hoặc nhát đảm.
Một năm sau, sau khi trở về Roma vào năm 1377, Đức Thánh Cha đã từ trần. Cuộc bầu Giáo Hoàng kế vị đánh dấu một thời kỳ rối ren trong lịch sử Giáo Hội, đó là cuộc đại ly giáo Tây Phương, một trong những cơn khủng hoảng gây chia rẽ đau đớn nhất cho Giáo Hội. Thánh nữ Catarina đã tiếp xúc và viết thư cho các hồng y, giám mục và vương công, nhưng đều vô ích. Hoàn toàn kiệt sức và đau đớn, cuối cùng thánh nữ đã hiến dâng mạng sống lên Thiên Chúa như một của lễ để cầu nguyện cho Giáo Hội. Vào một ngày tháng Giêng năm 1380, khi đang cầu nguyện trước mộ thánh Phêrô, thánh nữ cảm thấy trên vai của mình gánh nặng kinh khủng của Giáo Hội. Cơn hấp hối của thánh nữ kéo dài vài tháng. Và ngày 29 tháng Tư năm ấy, lúc giữa trưa, Thiên Chúa đã gọi Catarina về hưởng vinh quang. Trên giường hấp hối, thánh nữ đã dâng lên lời nguyện cảm động: "Ôi Thiên Chúa hằng hữu, xin đón nhận hiến lễ cuộc sống của con vì Nhiệm Thể Hội Thánh. Con không có gì để dâng lên, ngoài những gì Chúa đã ban cho con". Trước đó vài ngày, thánh nữ đã thưa với cha giải tội: "Con bảo đảm với cha, nếu con chết, nguyên nhân duy nhất cái chết của con là nhiệt tâm và lòng yêu mến Giáo Hội đã thiêu đốt và làm con tiêu tan". Chúng ta hãy cầu xin thánh nữ ban cho chúng ta một lòng mến bừng cháy đối với Mẹ Giáo Hội như thế.
c/ Và cuối cùng Catarina là người  luôn nhiệt thành bảo vệ chân lý.
Thánh nữ Catarina luôn thẳng thắn và can đảm lên tiếng mỗi khi có vấn đề nào ảnh hưởng đến Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng, và lợi ích các linh hồn. Ngài cảm thấy mình có trách nhiệm phải bảo vệ chân lý. Ở điểm này, chúng ta có thể học được rất nhiều từ thánh nữ Catarina: ngài không bao giờ nhượng bộ trong những điều căn bản, bởi vì ngài đặt trót niềm tin nơi Chúa.
Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Catarina cho chúng ta được chia sẻ phần nào lòng yêu mến của ngài đối với Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng Roma, và cả những ước vọng nóng bỏng muốn truyền bá giáo lý của Chúa Giêsu khắp nơi. Đồng thời, luôn cố gắng khám phá ra những khía cạnh tích cực của mọi vấn đề, không bỏ phí một cơ hội nào. Chúng ta hãy nài xin Đức Mẹ bằng những lời của chính thánh nữ Catarina: "Ôi Maria, con đến van nài, xin Mẹ dâng lời khẩn nài của con cho Hiền Thê dịu hiền của Chúa Kitô và cho vị Đại Diện trên trần gian của Người. Ước chi ngài luôn luôn được ánh sáng để cai trị Giáo Hội một cách khôn ngoan sáng suốt." Amen.

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Thứ bảy tuần 4 Phục Sinh năm B

Lời Chúa: Ga 14,7-14
"Anh em hãy tin Thầy:
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy;

bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm."
(Ga 14,11)
 hôm nay: Chúa Giêsu là mặc khải của Chúa Cha.
 Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi người, nhất là người tín hữu. Môisen xưa đã có lần khao khát được nhìn thấy dung nhan Chúa. Thánh Augustinô có lần đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, lòng con khắc khoải và còn khắc khoải mãi cho đến khi được nhìn thấy Chúa”.
Nhưng làm sao để được nhìn thấy Chúa thì Chúa Giêsu đã cho chúng ta một phương thế. “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy”(Ga 14,9). Muốn thấy Thiên Chúa, con người phải nhìn qua Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là hiện thân sống động của Thiên Chúa Cha. “Ta và Cha Ta là một”(Ga 10,30). Nhìn qua Chúa Giêsu ta có thể biết Chúa Cha như thế nào: Nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với những kẻ tội lỗi…Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.
 Nguyên tắc thì là như thế, nhưng trong thực tế có rất nhiều người hầu như chẳng bao giờ thấy được Chúa. Tại sao thế? Tại vì họ thiếu lòng khao khát.
Vâng! Con người chỉ có thể thấy Thiên Chúa bằng chính đôi mắt của con tim và đôi mắt của con tim chính là đôi mắt đức tin, mà chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho con người mà thôi.

Cầu nguyện : Lạy Chúa, xin cho con được thấy Chúa luôn đồng hành với con trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Amen.

Thứ sáu tuần 4 Phục Sinh năm B

Lời Chúa : Ga 14,1-6
"Chính Thầy là con đường,
là sự thật và là sự sống.
Không ai đến với Chúa Cha

mà không qua Thầy."
(Ga 14,6)
Chúa Giêsu tự ví mình như một con đường: Thầy là đường (Ga 14,6).
 Trong khung cảnh bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã dùng những lời rất thân tình, tha thiết để tâm sự với các môn đệ. Ngài bảo cho họ biết là Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi rất lạ mà họ chưa bao giờ được biết. Nhưng rồi Ngài lại hứa sẽ trở lại đón họ để cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,5-6).
Khi nói như thế, ít nhiều Chúa đã muốn cho mọi người biết: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa Ngài chính là con đường dẫn ta đến đích điểm đó.
 Vâng! Đời là một cuộc hành trình, mà hành trình phải có một điểm tới. Trong cuộc hành trình đến một nơi tôi chưa từng biết, nếu tôi tự hướng dẫn thì rất dễ lạc đường. Nếu tôi đi theo sự hướng dẫn của người khác thì có thể khá hơn; nhưng không gì bảo đảm bằng hành trình theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu: Bởi vì Ngài là Đấng từ trời xuống “Không ai lên trời được ngoại trừ Con Người Đấng đã từ trời xuống”. (Ga 1,13).
Chúa Giêsu đã quả quyết “Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm được”(Mt 11,12)
 Để đạt được vinh quang trần thế mà ta còn phải trả giá thì huống chi để được gặp Thiên Chúa và chiêm ngắm tôn nhan vinh hiển Người, thì con người còn cần một ý chí sắt đá cao hơn là dường nào. Con đường về thiên quốc là con đường không dưới vạn dặm và còn là con đường hẹp nữa.
Khi mời gọi chúng ta bước vào con đường đó, Chúa còn đòi hỏi ta phải bỏ mình, vác lấy Thập Giá mà đi theo Ngài.
Theo Ngài như thế, chúng ta được bảo đảm Ngài tới đâu chúng ta sẽ tới đó. Trong vinh quang của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chiêm ngưỡng dung nhan rạng ngời của Thiên Chúa, tràn đầy hoan lạc và hạnh phúc vô biên.

Cầu nguyện : Lạy Chúa, nhiều khi con lo lắng về tương lai, không biết đời con sẽ về đâu. Chúa bảo “lòng con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Chúa và tin vào Thầy”(Ga 14,1). Tương lai hãy để Chúa dẫn dắt. Chúa dạy con hằng ngày hãy sống như con cái Thiên Chúa và anh em của mọi người. Đó là con đường mà nếu con đi thì chắc chắn con đường đó sẽ dẫn con đến nhà Cha trên trời. Amen.

Thứ năm tuần 4 Phục sinh năm B

Lời Chúa : Ga 13,16-20
"Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy,
và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy."
(Ga 13,20)
Sau khi lãnh Bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu gia nhập vào một cộng đoàn gồm những anh chị em mới trong Đức Kitô, và những người lãnh đạo thay mặt Chúa hướng dẫn mình. Đó là những người Chúa sai đến với mình và Chúa muốn mình đón nhận. Tôi đã đón nhận anh chị em như thế nào?
Đón tiếp hay tiếp nhận đòi hỏi phải hy sinh và nhất là phải biết tôn trọng người khác. Không muốn hy sinh và tôn trọng người khác sẽ không có sự đón nhận thực sự, hoặc là đón nhận thì cũng chỉ đón nhận cách thờ ơ lãnh đạm.

Cầu nguyện : Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, mỗi người con gặp trên đời là một sứ giả Chúa gửi đến.  là Chúa mang đến cho con bài học về lẽ yêu thương. Xin cho con luôn biết yêu thương đón tiếp, để mọi người được sống trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài. (Epphata).

Thứ tư tuần 4 Phục sinh năm B

Lời Chúa : Ga 12,44-50
"Tôi là ánh sáng đến thế gian,
để bất cứ ai tin vào tôi,

thì không ở lại trong bóng tối."
(Ga 12,46)
David L. Weatherford đã viết rất hay: "Ta thích hơi ấm bởi ta đã biết thế nào là giá lạnh. Ta trân trọng ánh sáng bởi ta từng trải qua bóng tối. Và cũng như thế, ta thấm thía được niềm vui bởi ta đã nếm mùi đau khổ."
Là Kitô hữu, ta phải tập quen hành động theo sự sáng.
 Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng, quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều thứ bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại.
 Chúng ta phải sống như con cái sự sáng, không phải vì ích lợi cho chúng ta, mà còn để cho đời này bớt tối tăm. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy chiếu sáng như những vòm sao trên bầu trời”.
Chúa Giêsu nói: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
Tại nhà thờ nọ, trong một buổi tối giảng tĩnh tâm, có hàng ngàn tín hữu đến tham dự, nhằm khuyến khích con cái Chúa biết chiếu sáng lòng tốt của mình ra cho mọi người, linh mục thuyết giảng ra lệnh cho tắt hết các đèn trong nhà thờ.  
Trong giây lát, bóng tối phủ trùm. Cha nói:.
 - Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Tất cả những ai nhìn thấy ánh sáng của que diêm này, xin hô to lên rằng mình thấy nhé!
Cả nhà thờ to lớn, song chỉ ánh sáng một que diêm nhỏ, ai cũng nhìn thấy nên đồng thanh hô to:
- Thấy!
Cha liền giải thích:
- Bất cứ một hành động nào của lòng tốt cũng đều tương tự như thế. Một nguồn sáng dù nhỏ cũng có thể chiếu sáng ra giữa muôn ngàn tội lỗi xấu xa của nhân loại. Một hành động của lòng tốt dù thật nhỏ, cũng vẫn được phơi bày trước Chúa và loài người.
Kế đến, linh mục cho phân phát đến mỗi người một que diêm và bảo:
- Bây giờ mỗi người hãy đốt que diêm lên!
Trong giây lát, bóng tối trong nhà thờ đã nhường chỗ cho ánh sáng tỏa ra từ những que diêm li ti khiến nhà thờ tràn ngập những ánh sáng lung linh một cách kỳ diệu. Vị linh mục kết luận:
- Hãy coi đó, dù nghèo nàn về phần thiêng liêng, chúng ta cũng có thể đánh bại bóng tối tăm của tội lỗi và chiếu sáng cả thế giới bằng tình yêu và sự thánh thiện của mình.

Cầu nguyện : Lạy Chúa, xin cho con biết giá trị của mỗi việc tốt đẹp cho dù đó là việc nhỏ bé Amen

thứ ba tuần 4 Phục sinh năm B

 Lời Chúa : Ga 10,22-30
"Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không
bao giờ chúng phải diệt vong

và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi."

Chúa Giêsu nói: "Tôi biết chiên của tôi." (Ga 10,14).
Biết theo thánh Gioan là yêu thương.
Thánh Tôma Aquinô nói: "Nhiệm vụ của mục tử nhân lành là yêu mến. Vì thế, Người nói: mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Cần phải biết là có khác biệt giữa mục tử tốt và mục tử xấu: mục tử tốt nhắm đến lợi ích của đoàn chiên, còn mục tử xấu thì chỉ lo cho lợi ích riêng mình."
Đây lời tiên tri Êzêchiel: "Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm, như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Israel, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được. Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Israel. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Israel. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng."(Ed 34,11-16)
Có lẽ không có lời nào nói lên tấm lòng yêu thương của vị mục tử đối với chiên của mình hay hơn thế!
“ Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10,27).
Khi nhìn đám đông quần chúng theo mình, Chúa Giêsu cảm động và thương xót họ. Dưới mắt Ngài, họ như chiên không có kẻ chăn. Ngài ngụ ý gì khi nói như thế ?
Cuộc đời có thể khiến chúng ta bối rối lạc lõng, Chúng ta có thể gặp một ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta mới theo Ngài, tìm ra lối đi.
 Một con chiên không người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn. Sống trên đời này, chúng ta phải tìm kế mưu sinh, chúng ta ra khỏi chính mình và vượt cao hơn cả chính mình. Nếu chúng ta tìm nó ở những nơi khác, tâm trí chúng ta sẽ chưa thỏa mãn, tấm lòng chúng ta chưa được yên nghỉ, linh hồn chúng ta cũng chưa được no đủ. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực của đời sống từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống.
 Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể tự vệ cả với bọn trộm cướp lẫn với đám thú rừng. Nếu có gì cuộc đời dạy khôn chúng ta thì đó là chúng ta không thể sống một mình. Không ai có thể tự vệ đối với những cám dỗ, với điều ác của thế gian luôn luôn vây hãm mình. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian và luôn giữ được áo xống mình khỏi sự ô uế của đời này. Không có Ngài, chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn.
 "Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất” (Ga 10,28).
Mục tử tốt lành là mục tử luôn lo cho đoàn chiên.
Đây là lời cầu nguyện của thánh Grêgôriô:
Lạy Đấng Mục Tử nhân lành, Đấng mang cả đoàn chiên trên vai. Xin chỉ cho con chỗ nghỉ ngơi, xin dẫn con đến đồng cỏ xanh mà bổ dưỡng; xin gọi con đích danh, để con được nghe tiếng Chúa, vì con là chiên của Chúa.
Xin cho con biết Chúa đang chăn chiên ở đâu, để con tìm thấy đồng cỏ cứu độ và được đầy no lương thực bởi trời.
Xin cho con biết chạy đến nguồn suối mà múc lấy của uống thần linh, của uống chính Chúa ban như dòng nước từ nguồn mạch chảy tuôn cho những người đang khát. Chúa đã tuôn đổ dòng nước này từ cạnh sườn Chúa khi lưỡi đòng khai mạch. Ai nếm hưởng nước này thì trở nên mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.
Xin Chúa cho con biết phải làm gì để được nghỉ ngơi bồi dưỡng! Phải theo đường nào để tới chỗ nghỉ trưa. Xin đừng để con vì không biết sự thật mà rời xa bàn tay Chúa dắt dìu, nhập đoàn với những bầy chiên xa lạ, không phải là đoàn chiên của Chúa. Amen.

Thứ hai tuần 4 Phục sinh năm B

 Lời Chúa : Ga 10,11-18
"Chúng sẽ nghe tiếng tôi.
Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử."
(Ga 10,16)
Chúng ta  sống dưới sự dẫn dắt của Chúa Giêsu, Mục tử tốt lành.
 “Tôi là mục tử tốt lành.” (Ga 10,11)
Hình ảnh người mục tử mà Tin Mừng nói là một hình ảnh Họ là một con người cứng cáp, có khả năng đi bộ không biết mệt mỏi và ngủ ngoài trời qua những đêm nhiều khi rất lạnh, một con người dũng cảm táo bạo, có sức mạnh để bảo vệ đàn chiên chống lại chó sói, chồn, và xưa kia là sư tử; một người tài tình có khả năng tìm ra những đồng cỏ và nơi trú ẩn thích hợp cho đàn chiên. Như vậy, điều lý tưởng cho một đàn chiên không phải là một vòng rào vững chắc, mà là một người mục tử đích thực biết yêu thương, đặt cho chiên những cái tên mà chúng nhận ra, và không muốn mất đi một con nào, dù có phải hy sinh mạng sống.
Như vậy, khi chọn hình ảnh để nói về mình, rõ ràng Chúa Giêsu đã muốn cho chúng ta hiểu rằng, Ngài không phải là một Thiên Chúa cao vời cách xa, mà là một Thiên Chúa gần gũi yêu thương, như một Mục tử sống sát và yêu thương đàn chiên của mình.
 “Khi đã cho chiên đi ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”(Ga 10,4). 
Sống trong thế giới hôm nay, chúng ta bị bao vây bởi quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng Đức Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành. Chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt. Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc phút giây trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng (The Sound of Silence), nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người?
Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta?
"Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử” (Ga 10,14-16)

Cầu nguyên: Lạy Chúa, xin cho con đôi tai biết điếc đi để chỉ được nghe tiếng Chúa, xin cho tâm hồn con biết lắng đọng đẻ chỉ biết thổn thức với Chúa. Amen

CHÚA NHẬT TUẦN IV PHỤC SINH

TUẦN IV PHỤC SINH
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH B
Ga 10,11-18
"Tôi chính là Mục Tử nhân lành." (Ga 10,11)
Trong bài Tin Mừng , Chúa Giêsu tự ví mình là người mục tử, người mục tử nhân lành.
 Tôi là Mục Tử nhân lành. Tôi biết các chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi.
Biết ở đây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều. Theo ngôn ngữ của thánh Gioan biết chính là yêu thương.
Vâng! Yêu thương không phải là lúc nào cũng cho ngọt cho bùi, nhưng là biết ứng xử một cách có ích, có lợi nhất cho người mình thương. 
  Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.
Năm 1870 chính phủ Hawai ra lệnh bắt những người mắc bệnh phong hủi, phải ở riêng cách biệt với mọi người. Họ dành riêng cù lao Molokai để đưa những người phong cùi đến ở đó. Tàu của nhà nước mỗi tuần chỉ tiếp tế cho những người ở đây một lần. Những người phong cùi sống ở đó thiếu thuốc thang, thiếu sự chăm sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ đặc biệt là về phương diện tôn giáo. Khi vừa nghe thấy tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức giám mục giáo phận cho phép ngài được ra sống chung với những người xấu số đó. Thấy Đức giám mục có vẻ lưỡng lự, cha Damien đã quì xuống đất thưa rằng:
 - Thân Đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi khoác lên mình chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu.
Sau khi được phép đức giám mục giáo phận, cha Damien lên đường ra đi, đến cù lao Molokai để sống chung với anh em phong hủi. Cha đã sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Sau một thời gian vì quá gần gũi với những người cùi, cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười năm trước đây. Mặt mũi giờ đây giộp và xưng lên. Hai tay dày cộm và xệ xuống, các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của cha: da trán sưng lên ghê tởm; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn đỏ hoẻn.
Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết giữa con chiên.
Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế để ở với loài người. Chúa còn chết cho loài người.  
Cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh phong cùi của cha, để một phần nào thể hiện được điều Chúa đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mục tử tốt lành liều mạng sống vì con chiên”.
 "Con chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.
Sống trong thế giới hôm nay, chúng ta cũng bị bao vây bởi quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng của đức Giêsu, vị mục tử nhân lành. Hãy xin Chúa cho chúng ta lắng nghe được tiếng Ngài để khỏi bị lạc hướng giữa cuộc sống hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu,xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi
chúng con bằng tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.

Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật. Amen.

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

THỨ BẢY TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,60-69
 "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì
 chúng con biết đến với ai?"
(Ga 6,68)
Nhiều người bỏ đi vì cho là những Lời Chúa nói chói tai, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ hôm đó, có nhiều người môn đệ rút lui không theo Ngài nữa”.(Ga 6,66)
Rõ ràng là hành trình đi theo Chúa không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa cũng làm chúng ta chói tai và chúng ta muốn rút lui.
Cuộc sống của người Kitô hữu cũng có thể được ví như một cuộc đi săn. Có những lúc chúng ta rất sốt sắng, hăm hở trên con đường theo Chúa, chúng ta sẵn sàng nói lời cam kết với Chúa. Thế nhưng, nếu không cẩn trọng thì vào một lúc nào đó, khi không còn thấy gì hấp dẫn trước mắt trên con đường theo Chúa nữa, thì biết đâu chúng ta cũng lại giống như một số các môn đệ của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau đó, Chúa Giêsu hỏi nhóm 12, Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Phải nói đây là những lời tâm huyết luôn biết đặt Chúa lên trên tất cả. Giữa lúc tâm hồn đang bị dao động trước sự tháo lui của một số anh em mà Phêrô còn nói lên được những lời thật mặn nồng như thế, chắc Chúa phải cảm động lắm.

Vâng phải thấy Chúa là tất cả, thì Phêrô mới có thể tuyên bố như vậy.

THỨ SÁU TUẦN 3 PHỤC SINH


Lời Chúa : Ga 6,52-59
"Đây là bánh từ trời xuống,
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."
(Ga 6,58)
Chúa Giêsu nói thêm về bánh ban sự sống, là thịt và máu Ngài: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ được sống đời đời”(Ga 6,54).
Câu nói này đã khiến những người Do Thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận là vì trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Chúa Giêsu) có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
Phần Chúa Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào?
Thưa theo nghĩa đen. Chúa Giêsu đã dùng những động từ rất mạnh và rất cụ thể làtrôgô nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thứ nào đó. Và động từ trôgô này được lập đi lập lại nhiều lần (các câu 53-54). Rồi Ngài tuyên bố dứt khoát “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống”(Ga 6,55).
Bí tích Thánh Thể, là bí tích Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
Vâng, việc Chúa Giêsu làm thật khó hiểu nhưng Lời Chúa quả là rất rõ ràng.
Khi lập phép Bí tích Thánh Thể, Chúa đã muốn hiến chính thịt máu ngài làm của ăn của uống nuôi linh hồn chúng ta hằng ngày.
Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể thực hiện được một công việc kỳ diệu như thế.
Chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa và xin Chúa cho chúng ta được hết lòng yêu mến Bí Tích Thánh Thể và năng chạy đến với Chúa Giêsu để được ngài bổ dưỡng.
Người ta kể lại rằng, khi mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên Xô, Liên Xô có ngỏ ý xin mẹ cho lập chi nhánh của Dòng mẹ ở đó. Mẹ đã đồng ý nhưng với một điều kiện: xin cho có một Linh mục dâng Thánh lễ cho các nữ tu mỗi ngày. Mẹ giải thích: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Máu Chúa mà họ rước mỗi ngày.
 “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống”(Ga 6,55).
Chúa ban Mình Máu Thánh của Người cho chúng ta...qua đó Chúa cũng muốn dạy chúng ta bài học biết chia sẻ cho nhau như Chúa.
cầu nguyện:
Được tham dự thánh lễ, được đón nhận Mình Máu thường xuyên, có lẽ ít khi chúng ta có được lòng khao khát Chúa. Hơn nữa, vì quá quen, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy nhàm chán, hoặc làm cho qua lần chiếu lệ.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được lòng khao khát đến với Chúa mỗi ngày.

THỨ NĂM TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,44-51
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này,

sẽ được sống muôn đời."
(Ga 6,51)
Việc “tin vào” Chúa Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác hai phía:
Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” để con người tin và đến với Ngài: "Không ai đến được với Tôi nếu cha Tôi là Đấng sai Tôi không lôi kéo kẻ ấy" (Ga 6,44).
Được lôi kéo rồi con người còn phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa nữa: “Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Tôi”(câu 45).
Tóm lại, việc “tin vào” Chúa Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa muốn và luôn tạo điều kiện để con người thực hiện. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
“Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy”(Ga 6,44). Đến với Chúa Kitô là một ơn huệ Thiên Chúa thúc giục. Ai đến với Đức Kitô và tin vào Người, sẽ có sự sống đời đời. Có Đức Kitô trong mình là ta được sống trong thế giới của Thiên Chúa, được sống sự sống trường sinh.
Nếu xưa Philipphê đã là trung gian cho quan thái giám xứ Êthiốp để ông được Chúa ban cho ông ơn đức tin, thì ngày nay người Kitô hữu cũng phải làm trung gian để những người chung quanh mình tìm đến với Chúa, để họ cũng có được ơn đức tin như vậy.
 "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống."(Ga 6,51)
Trong một cuộc họp mặt đông đảo của những người Kitô hữu, tại một nhà thờ ở Tây Đức, để tiếp đón mẹ Têrêsa Calcutta, người ta dâng lên cho mẹ một bó hoa tuyệt đẹp.
Bỡ ngỡ trước lòng quí mến và trọng kính mà cử tọa dành cho mình, mới đầu mẹ Têrêsa tỏ ra hơi lúng túng. Nhưng sau đó vài giây, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa, đi thẳng lên trên cung thánh, quì gối trước bàn thờ, rồi đặt bó hoa mà mẹ vừa được trao tặng, trước nhà tạm.
Cử chỉ này của mẹ Têrêsa cho thấy, Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã kín múc lấy cho cuộc sống dấn thân và phục vụ cách vô vị lợi của mẹ.
Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian”(Ga 3,16).
Thực vậy, còn hình thức nào để thể hiện sự chấp nhận tình thương của Thiên Chúa cho bằng ăn “bánh Giêsu”. Mà điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là tin và yêu.

Đó là điều chúng ta cần cầu xin cho nhau mỗi ngày.

THỨ TƯ TUẦN 3 PHỤC SINH


Lời Chúa : Ga 6,35-40
"Ai thấy Người Con và tin vào Người Con
thì được sống muôn đời,

và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết."
(Ga 6,40)
 Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Đức tin vào Chúa Giêsu phải thể hiện qua việc đến với Ngài. Đó là điều kiện tiên quyết để được hạnh phúc, được sống đời đời. Nhưng như thánh Phaolô nói: Làm sao tin được, nếu không được nghe; làm sao nghe được, nếu không có người rao giảng; và làm sao rao giảng, nếu không được sai đi (Rm 10,14). Tất cả những ai tin Chúa, thì cũng ý thức sứ mạng được sai đi để nói về Chúa cho người khác, nhờ đó họ mới có thể đến với Chúa và tin vào Chúa. Cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi đã ý thức về sứ mạng đó, cho nên đi tới đâu, họ cũng rao giảng cho người khác biết về Chúa. Khi nói về sinh hoạt của Giáo Hội tiên khởi, các sử gia cho rằng, sở dĩ người Kitô hữu đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, là vì họ không truyền bá Tin Mừng bằng sách vở, mà là bằng đời sống gương mẫu của họ.
 Tuy nhiên, không phải chỉ có việc tin vào Chúa, mà còn phải lãnh nhận Mình Máu Chúa. Đây là điều không dễ chấp nhận trên bình diện nhân loại, nhưng Chúa Giêsu đã mạc khải sự thật này.
“Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai”(Ga 6,39).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn được Ngài yêu thương và Ngài khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata).