Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

THỨ BẢY TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,60-69
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì
 chúng con biết đến với ai?”
(Ga 6,68)
Nhiều người bỏ đi vì cho là những Lời Chúa nói chói tai, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ hôm đó, có nhiều người môn đệ rút lui không theo Ngài nữa”. (Ga 6,66)
Rõ ràng là hành trình đi theo Chúa không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa cũng làm chúng ta chói tai và chúng ta muốn rút lui.
Đức hồng y Carlo Martini, nguyên là tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải Tin Mừng thánh Gioan, câu chuyện sau đây: Vào thế kỷ thứ ba, trong Giáo Hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ đời sống tu trì... Để giải thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã mượn câu chuyện chó đi săn thỏ để giải thích.
Một chú chó trong đàn bất chợt phát hiện ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn, vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Chẳng mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó đã chạy ùa theo.
Tất cả mọi con chó đều chạy, nhưng kỳ thực chỉ có một con chó đã phát hiện nhìn thấy con thỏ, còn những con khác thì không. Sau một hồi săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì chúng không nhìn thấy con thỏ đâu. Duy chỉ có chú chó đầu tiên đã phát hiện ra con thỏ thì vẫn tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Rồi vị tu sĩ trên đã đưa ra kết luận như sau:                                   
Đã có rất nhiều tu sỹ đi theo Chúa, nhưng chỉ có một ít thực sự nhìn thấy Chúa và họ biết họ đang theo đuổi điều gì. Số khác đã chạy theo, hoặc vì bị lôi cuốn bởi đám đông, hoặc vì họ nghĩ rằng, họ đang làm một điều tốt, nhưng rồi thời gian đã làm họ thay đổi và bởi vì họ chưa bao giờ thấy rõ Chúa là lý tưởng, nên khi gặp khó khăn, thử thách là họ bắt đầu chán nản và bỏ cuộc.
Cuộc sống của người Kitô hữu cũng có thể được ví như một cuộc đi săn. Có những lúc chúng ta rất sốt sắng, hăm hở trên con đường theo Chúa, chúng ta sẵn sàng nói lời cam kết với Chúa. Thế nhưng, nếu không cẩn trọng thì vào một lúc nào đó, khi không còn thấy gì hấp dẫn trước mắt trên con đường theo Chúa nữa, thì biết đâu chúng ta cũng lại giống như một số các môn đệ của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.
 Sau đó, Chúa Giêsu hỏi nhóm 12, Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Phải nói đây là những lời tâm huyết luôn biết đặt Chúa lên trên tất cả. Giữa lúc tâm hồn đang bị dao động trước sự tháo lui của một số anh em mà Phêrô còn nói lên được những lời thật mặn nồng như thế, chắc Chúa phải cảm động lắm.
Vâng phải thấy Chúa là tất cả, thì Phêrô mới có thể tuyên bố như vậy.
Odette, một cô gái xinh đẹp sinh ra trong một gia đình quí tộc nước Bỉ. Năm 17 tuổi cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ đến bắt cô trở về. Từ lâu, ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con gái cưng không muốn lập gia đình, nên cha mẹ cô đã âm thầm chuẩn bị hôn lễ, các thiệp mời đều được kín đáo gởi đi và sự chuẩn bị đều giữ bí mật cho đến giờ chót.
Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vén màn nhìn qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đài. Hỏi đầy tớ gái, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Xong, họ đưa cô xuống nhà nguyện tư của lâu đài. Giám mục của vùng và linh mục tuyên uý lâu đài đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước, vị chủ tế hỏi Odette có ưng nhận Simon làm chồng theo luật Giáo hội không? Cô dõng dạc tuyên bố:
- Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng cho Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào cho dù sự hăm dọa, có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng. Và kìa, Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “như thế sẽ không còn ai cấm con đi tu nữa.”
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.

THỨ SÁU TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,52-59
“Đây là bánh từ trời xuống,
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
(Ga 6,58)
Hôm nay Chúa Giêsu nói thêm về bánh ban sự sống, là thịt và máu Ngài: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54).
Câu nói này đã khiến những người Do Thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận là vì trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Chúa Giêsu) có người hiểu theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
Phần Chúa Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào?
Thưa theo nghĩa đen. Chúa Giêsu đã dùng những động từ rất mạnh và rất cụ thể là trôgô nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thứ nào đó. Và động từ trôgô này được lập đi lập lại nhiều lần (các câu 53-54). Rồi Ngài tuyên bố dứt khoát “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55).
Bí tích Thánh Thể, là bí tích Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người.
Vâng, việc Chúa Giêsu làm thật khó hiểu nhưng Lời Chúa quả là rất rõ ràng.
Từ xưa đến giờ, ngoài những người ở bộ lạc bán khai bên Phi châu trước kia là những người ăn thịt người, còn đối với những nơi khác thì việc ăn thịt người là một việc vô cùng họa hiếm. Sử sách có ghi lại một ít trường hợp ăn thịt người. Thí dụ xưa ở bên Trung hoa vào đời Xuân Thu, công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, gặp lúc lương thực không có, công tử lại không ăn được rau cỏ dại trong rừng, thấy vậy Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Gần đây bên Pháp, dân Paris đã phải rởn tóc gáy vì mẫu tin: một sinh viên gốc Nhật giết một cô gái, chặt ra từng khúc, bỏ vào tủ lạnh và định ăn dần cho đến hết. Khi bị bắt, anh ta khai. Cô gái ấy là người yêu của anh. Anh yêu cô đến độ muốn biến cô thành máu thịt của chính mình nên đã giết đi và ăn thịt. Chỉ tiếc rằng, anh mới ăn có vài ngày đã bị phát giác.
Khi lập phép Bí tích Thánh Thể, Chúa đã muốn hiến chính thịt máu ngài làm của ăn của uống nuôi linh hồn chúng ta hằng ngày.
Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể thực hiện được một công việc kỳ diệu như thế.
Chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa và xin Chúa cho chúng ta được hết lòng yêu mến Bí Tích Thánh Thể và năng chạy đến với Chúa Giêsu để được ngài bổ dưỡng.
Người ta kể lại rằng, khi mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên Xô, Liên Xô có ngỏ ý xin mẹ cho lập chi nhánh của Dòng mẹ ở đó. Mẹ đã đồng ý nhưng với một điều kiện: xin cho có một Linh mục dâng Thánh lễ cho các nữ tu mỗi ngày. Mẹ giải thích: sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Máu Chúa mà họ rước mỗi ngày.
 “Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55).
Chúa ban Mình Máu Thánh của Người cho chúng ta...qua đó Chúa cũng muốn dạy chúng ta bài học biết chia sẻ cho nhau như Chúa.
Vào thời gian đạo Công giáo bị cấm đoán, một thương gia Công giáo người Đức đã đi lên miền Bắc cực. Vì công việc làm ăn, ông phải lưu lại đó suốt mùa Giáng Sinh.
Biết ông là người Công giáo, một gia đình ở đó đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với họ vào đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh chiếc bàn nhỏ. Đúng nửa đêm họ cùng nhau cầu nguyện.
Sau lời chào chúc bình an, lời nguyện và bài Kinh Thánh, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ. Trong hộp có một khăn thánh đã úa vàng theo thời gian.
Vừa nâng chiếc khăn lên, ông già vừa run run cất giọng nói:
- Cách đây 50 năm, thánh lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất chúng ta đang sống đã được dâng trên khăn thánh này. Lúc ấy tôi là một thanh niên giúp lễ. Đây là vật duy nhất còn lại. Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên khăn này.
Sau khi nghe những lời ấy, mọi người quì gối và ông bố dâng lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gửi các linh mục đền để chúng con được phúc mừng lễ Giáng Sinh, để chúng con lại được dự phần vào Mình và Máu Chúa.
Người thương gia Đức bồi hồi cảm động. Ông khao khát lãnh nhận Thánh Thể, một sự khao khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến nhà thờ dự lễ hàng ngày.
Có bao giờ chúng ta cảm thấy xa bàn tiệc thánh như những người trong câu chuyện trên?
Được tham dự thánh lễ, được đón nhận Mình Máu thường xuyên, có lẽ ít khi chúng ta có được lòng khao khát Chúa mạnh như thế. Hơn nữa, vì quá quen, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy nhàm chán, hoặc làm cho qua lần chiếu lệ.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được lòng khao khát đến với Chúa mỗi ngày.

THỨ NĂM TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,44-51
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
(Ga 6,51)
Tiếp tục ý tưởng hôm qua về “đến với” và “tin vào” Chúa.
Việc “tin vào” Chúa Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác hai phía:
Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” để con người tin và đến với Ngài: "Không ai đến được với Tôi nếu cha Tôi là Đấng sai Tôi không lôi kéo kẻ ấy" (Ga 6,44).
Được lôi kéo rồi con người còn phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa nữa: “Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Tôi” (câu 45).
Tóm lại, việc “tin vào” Chúa Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa muốn và luôn tạo điều kiện để con người thực hiện. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
Việc quan thái giám xứ Êthiốp được ơn trở lại với Chúa trong Sách Tông Đồ Công Vụ là một thí dụ. Qua sự việc này, ta thấy có hai yếu tố quan trọng: một là ông ta là người đang nghiên cứu Kinh Thánh, hai là thiên sứ sai ông Philipphê đến để giúp ông ta. Việc thiên sứ thúc giục ông Philipphê đến với quan thái giám cho thấy, đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban, nhưng thường qua trung gian một con người. Con người làm trung gian ở đây là ông Philipphê.
Qua sự việc này chúng ta có thể hiểu được những gì Chúa nói hôm nay: “Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44). Đến với Chúa Kitô là một ơn huệ Thiên Chúa thúc giục. Ai đến với Đức Kitô và tin vào Người, sẽ có sự sống đời đời. Có Đức Kitô trong mình là ta được sống trong thế giới của Thiên Chúa, được sống sự sống trường sinh.
Nếu xưa Philipphê đã là trung gian cho quan thái giám xứ Êthiốp để ông được Chúa ban cho ông ơn đức tin, thì ngày nay người Kitô hữu cũng phải làm trung gian để những người chung quanh mình tìm đến với Chúa, để họ cũng có được ơn đức tin như vậy.
Bà J. Scaggs, một giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành ở Nigéria, châu Phi, đã kể lại câu chuyện cảm động sau đây:
Một ngày kia bà được mời đến dự lễ Giáng Sinh được tổ chức tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên bà chứng kiến một số người cùi đông như vậy. Buổi lễ được tổ chức ngoài trời. Nhìn chỗ nào bà cũng thấy những người ngồi dự lễ. Gốc cây, ụ đất, bãi cỏ... chỗ nào cũng đông nghẹt người. Bà thấy họ thật đáng thương, bệnh tật gậm nhấm dần và hủy hoại thân thể họ, nhưng khuôn mặt người nào cũng bày tỏ niềm vui, mắt họ sáng ngời khi họ hát những bài thánh ca Giáng Sinh.
Đến phần công bố Lời Chúa, mục sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay lên đọc sách Thánh, ông phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, mục sư mời người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban cho mình, người bệnh cùi ấy giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên, ông nhỏ nhẹ nói:
- Tôi muốn cảm ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã cho tôi bị cùi.
Bà Scaggs lấy làm lạ, nói với người thông dịch rằng, anh ta dịch sai. Không ai lại có thể cám ơn Chúa vì "được cùi" bao giờ. Người thông dịch tiếp tục dịch lại lời người bệnh đang giải thích nguyên do:
- Nếu tôi không bị cùi, có thể tôi đã không bao giờ biết Chúa, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang săn sóc trợ giúp tôi!
3. "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51)
Trong một cuôc họp mặt đông đảo của những người Kitô hữu, tại một nhà thờ ở Tây Đức, để tiếp đón mẹ Têrêsa Calcutta, người ta dâng lên cho mẹ một bó hoa tuyệt đẹp.
Bỡ ngỡ trước lòng quí mến và trọng kính mà cử tọa dành cho mình, mới đầu mẹ Têrêsa tỏ ra hơi lúng túng. Nhưng sau đó vài giây, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa, đi thẳng lên trên cung thánh, quì gối trước bàn thờ, rồi đặt bó hoa mà mẹ vừa được trao tặng, trước nhà tạm.
Cử chỉ này của mẹ Têrêsa cho thấy, Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã kín múc lấy cho cuộc sống dấn thân và phục vụ cách vô vị lợi của mẹ.
Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian” (Ga 3,16).
Thực vậy, còn hình thức nào để thể hiện sự chấp nhận tình thương của Thiên Chúa cho bằng ăn “bánh Giêsu”. Mà điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là tin và yêu.

Đó là điều chúng ta cần cầu xin cho nhau mỗi ngày.

THỨ TƯ TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,35-40
"Ai thấy Người Con và tin vào Người Con
thì được sống muôn đời,
và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
(Ga 6,40)
 Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Đức tin vào Chúa Giêsu phải thể hiện qua việc đến với Ngài. Đó là điều kiện tiên quyết để được hạnh phúc, được sống đời đời. Nhưng như thánh Phaolô nói: Làm sao tin được, nếu không được nghe; làm sao nghe được, nếu không có người rao giảng; và làm sao rao giảng, nếu không được sai đi (Rm 10,14). Tất cả những ai tin Chúa, thì cũng ý thức sứ mạng được sai đi để nói về Chúa cho người khác, nhờ đó họ mới có thể đến với Chúa và tin vào Chúa. Cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi đã ý thức về sứ mạng đó, cho nên đi tới đâu, họ cũng rao giảng cho người khác biết về Chúa. Khi nói về sinh hoạt của Giáo Hội tiên khởi, các sử gia cho rằng, sở dĩ người Kitô hữu đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, là vì họ không truyền bá Tin Mừng bằng sách vở, mà là bằng đời sống gương mẫu của họ.
Tuy nhiên, không phải chỉ có việc tin vào Chúa, mà còn phải lãnh nhận Mình Máu Chúa. Đây là điều không dễ chấp nhận trên bình diện nhân loại, nhưng Chúa Giêsu đã mạc khải sự thật này.
“Ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai” (Ga 6,39).
Cha Matthêô, vị tông đồ của Phong trào tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong các gia đình, thuật lại một câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mình:
Tôi ở Lộ Đức, khi vừa giảng xong tôi bước xuống khỏi hang đá, khá mệt. Một nông dân tiến lại gần, cầm tay tôi và nói:
- Có phải cha là người vừa giảng ở Vương Cung Thánh đường không?
- Vâng!
- Ồ quí hóa quá. Từ nhiều năm nay con vẫn dâng việc rước lễ hàng ngày và giờ thờ lạy Mình Thánh Chúa mỗi tuần của con, để xin Trái Tim Chúa ngự trị trong mọi gia đình, và cha vừa giảng với mục đích ấy.
Tôi nói với ông:
- Hãy đến khách sạn với tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện lâu dài với nhau.
- Đến khách sạn với cha ư? Thưa cha không thể được, vì con còn có xe bò. Con không thể để xe và các con bò ở đây để đến với cha ngay được.
- Vậy tối nay, 8 giờ đến nhé.
- Tối nay, 8 giờ. Dạ, được.
Ông ta đến và chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau đến nửa đêm. Người nông dân nói chuyện như một nhà thần học có tầm cỡ. Cuối cùng, tôi nói với ông:
- Ông muốn trở thành bạn của tôi không?
- Thưa cha, muốn lắm chớ.
- Vậy các người bạn thường viết thư cho nhau, ông nhớ viết thư cho tôi nhé.
Bác nông dân lắc đầu lia lịa:
-Thưa cha, con không biết đọc và biết viết.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Vậy ông học ở đâu được tất cả những gì ông vừa nói với tôi thế?
Đến lượt ông ngạc nhiên:
- Ở đâu ư? Cha hỏi con học ở đâu khi mỗi ngày cha đều dâng lễ. Ở bên Người, bên Chúa, chính Người là vị thầy duy nhất của con.
Và đây là trang nhật ký của một Linh mục:
“…Đức Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh…Rồi chẳng biết từ đâu, Triết Đông và Phật Giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giêsu cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm …Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động trong nhà nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi tôi phải đền bù.
Một đêm trước khi làm Linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát nhà chầu. Có cái gì đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi, dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cả cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…

Lạy Chúa, chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn được Ngài yêu thương và Ngài khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata).

THỨ BA TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,30-35
"Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
(Ga 6,35)
1. Chúa Giêsu bắt đầu giải thích về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”:
Thứ của ăn đó vượt trội hơn manna ngày xưa.
Nghe thế, dân chúng tưởng đó là một thứ thức ăn - cũng vẫn là vật chất - nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin “Thưa Ngài, xin Ngài cho chúng tôi bánh đó luôn mãi” (Ga 6,34).
Thái độ của dân Do Thái rất đáng chúng ta suy nghĩ: nhớ tới manna ngày xưa, họ chỉ nghĩ rằng, đó là thứ bánh vật chất nhưng ngon hơn thứ bánh ngày thường, cho nên họ cầu xin với Chúa Giêsu cho họ thứ lương thực vật chất đó để giúp họ no lâu hơn. Nhiều người trong chúng ta, khi đến với Chúa có lẽ cũng chỉ để xin những nhu cầu thoả mãn cho cuộc sống vật chất như thế.
Ở đây, chúng ta thấy Chúa muốn nói đến một thứ lương thực khác. Chúng ta phải nhớ những hình ảnh trong Tin Mừng Gioan luôn mang hai ý nghĩa: nghe tới “đói” phần xác thịt, thì phải nghĩ tới cơn đói tinh thần, thấy thức ăn vật chất, thì hãy nghĩ tới thức ăn tinh thần.
Chúng ta thấy mỗi khi ăn, chúng ta làm điều mà không nhà khoa học nào có thể làm: ta đưa vào trong mình một lượng vật chất để giúp ta có sự sống. Thức ăn trở nên thành phần của cơ thể ta. Sức khỏe của ta lệ thuộc vào thức ăn. Một câu tục ngữ xưa nói: “Bạn là những gì bạn đã ăn”.
Thức ăn giàu chất dinh dưỡng: chúng ta sung sướng béo mập; ăn vặt: chúng ta sẽ bị suy dinh dưỡng. Biết thế nên Chúa Giêsu quyết định ẩn mình trong tấm bánh và trở nên lương thực cho linh hồn của những kẻ theo Ngài (Góp nhặt).
2. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35).
Vâng, Chúa Giêsu đã trở thành bánh trường sinh cho tất cả những ai tin vào Người. Công việc xem như không thể nhưng với Chúa thì tất cả đều có thể.
Người ta kể lại rằng, có lần thánh nữ Gertruđê đang suy niệm về bí tích Thánh Thể và tự hỏi không biết làm sao mà Chúa lại có thể tự hạ mình xuống thấp như thế, để hiện diện trên bàn thờ dưới hình bánh, thì chính Chúa Giêsu đã hiện ra và cắt nghĩa cho bà. Người cắt nghĩa bằng một câu chuyện sau. Người nói:
Một hoàng tử nhỏ ở trong một lâu đài rộng lớn với đủ loại đồ chơi, ngày kia nhìn qua cửa sổ và thấy các đứa bé nghèo chơi trên đường. Thấy hoàng tử nhìn qua cửa sổ như thế, người giám hộ liền hỏi:
- Hôm nay, hoàng tử muốn ở chơi trong lâu đài hay muốn ra ngoài chơi với các đứa bé trên đường phố?
- Tôi muốn ra ngoài chơi với chúng.
Được phép, hoàng tử khoác vào người bộ đồ cũ nhất và cả ngày chơi với các trẻ nghèo. Đây là một trong những ngày hạnh phúc nhất của cậu bé chốn cung đình.
Rồi Chúa nói với thánh Gertruđê:
- Ta giống như vị hoàng tử nhỏ kia. Ta muốn ở với con người, đàn ông cũng như đàn bà. Bất cứ ai không đến với Mình Thánh hoặc ngăn cản kẻ khác đến rước lễ, kẻ ấy lấy mất đi của Ta một niềm vui lớn.
Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để luôn có được niềm vui.
Bà Marthe Robin một trong những người được in năm dấu thánh. Bà đã qua đời cách đây không lâu.
Hơn 30 năm trời bà không ăn uống gì, chỉ sống bằng Mình Thánh Chúa. Tôi xin nhắc lại: hơn 30 năm. Vâng, 30 năm trời như vậy, mỗi ngày có một linh mục đem Mình Thánh Chúa đến cho bà. Và mỗi khi linh mục đem Mình Thánh Chúa đến thì ngài có cảm tưởng y như Mình Thánh bay từ tay mình vào thẳng nơi miệng bà thật sự. Bà âm thầm sống trong một căn nhà nho nhỏ, có cha linh hướng săn sóc, đi đâu cha cũng khóa cửa lại, vì bà chẳng cần ăn uống gì hết.
Tuy mắt đã mù, không đọc sách báo cũng chẳng nghe được đài phát thanh, nhưng mỗi lần có ai xin bà việc gì, thì bà trả lời như thể bà đang nghe thấy tất cả những tin tức cuối cùng và mới mẻ nhất về nơi chỗ diễn tiến của sự việc vừa xảy ra. Làm sao cắt nghĩa được sự kiện lạ lùng này nếu không tin vào quyền năng của Thiên Chúa!
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là tấm Bánh Thánh nuôi dưỡng cho con,
Nhưng con lại có thể bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,
Ngài mới là Chén Máu Thánh bổ sức cho con,
Nhưng con lại có thể quảng đại mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới thật sự là đường
Nhưng con lại có thể chỉ đường cho anh em con bước đi.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là ánh sáng,
Nhưng con lại có thể làm cho ánh mắt anh em con thêm sáng ngời long lanh.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa,Ngài mới là sự sống vĩnh cửu,
Nhưng con lại có thể đem đến cho anh em con niềm vui sống.

(Phỏng theo L’INDISPENSABLE PIÈRE)

THỨ HAI TUẦN 3 PHỤC SINH

Lời Chúa : Ga 6,22-29
"Hãy ra công làm việc
không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn
đem lại phúc trường sinh.”
(Ga 6,27)
Chúng ta bắt đầu bài suy niệm về Bí tích Thánh Thể: Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng đi tìm Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, họ gặp Ngài ở bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Tôi không phải vì các ngươi thấy các dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn no nê” (Ga 6,26).
 Rồi Ngài nói cho họ biết về một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời” (Ga 6,26-27).
Qua những lời đó, Chúa Giêsu nhắc nhở cho dân chúng ngày xưa và cũng như ngày nay: Cuộc sống con người ngoài lương thực vật chất, còn một thứ lương thực khác, đó là thứ lương thực làm cho người ăn có được sự sống tồn tại đến muôn đời.
Một điền chủ muốn thưởng công xứng đáng cho nông dân đã chăm chỉ cầy sâu cuốc bẫm, chăm sóc ruộng đất cho chủ trong suốt một thời gian dài. Vào một buổi sáng nọ, ông chủ cho gọi người nông dân đến và nói:
- Nhờ anh mà tôi được giàu có thêm. Hôm nay, tôi quyết định cho anh một phần thưởng. Anh biết rõ ruộng đất của tôi rộng thẳng cánh cò bay. Vậy vào lúc mặt trời mọc sáng ngày mai, tôi cho anh chạy trên đất của tôi nhanh chậm tùy ý. Anh phải tính thế nào để đúng lúc mặt trời lặn, anh phải trở về điểm khởi hành. Vòng tròn thửa đất có vết chân của anh đã chạy sẽ là ranh giới tài sản mà tôi cho anh.
Anh nông dân hết sức mừng rỡ. Vì khỏe mạnh nên anh chạy nhanh như gió. Càng về chiều, anh càng chạy nhanh hơn. Nhìn lại thửa đất mênh mông mà anh đã chạy vòng qua, anh càng hăng hái và ráng chạy, chạy nhanh, thật nhanh. Lúc mặt trời vừa lặn thì cũng là lúc anh vừa trở về lại điểm khởi hành. Thế nhưng, vừa về đến nơi thì anh cảm thấy choáng váng trong người. Mặt tái mét, mắt hoa lên, rồi anh ngã xuống đất và rồi tim anh ngừng đập. Anh đã tắt thở trước mặt mọi người! Thế là hết! Lúc đó, anh chỉ còn cần có 3 tấc đất người ta gửi tấm thân anh vào đó.
 Lời của Chúa Giêsu: “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”. (Ga 6,27)
Một nhà truyền giáo kia kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm, có một người bản xứ vội vã chạy đến tìm gặp tôi. Anh la lớn: "Thưa Cha! cách đây 25 cây số có một người đang hấp hối. Cha hãy đến mau!"
Vài phút sau, tôi ra khỏi thành phố, hướng về phía Nam. Trong nhiều giờ, chúng tôi cuốc bộ dưới ánh nắng chói chang và qua những con đường đầy bụi bặm. Những lời nói của người dẫn đường làm cho tôi có cảm giác như có một cái gì đó bất thường sắp xảy ra. Anh ta nói với tôi về một người bệnh, một người bệnh trong một ngôi chùa. Cuối cùng, thì tôi cũng đã hiểu ra: Đó là một người Kitô hữu già làm nghề gác chùa từ rất lâu! Ông ta giữ nhiệm vụ canh chùa, rung chuông đánh trống mỗi khi có các buổi lễ. Bây giờ, ông ta sắp chết vì thế ông nhờ người đi tìm Linh mục.
Buổi chiều, chúng tôi đến nơi, trong một góc chùa, trên một chiếc chiếu, tôi nhận thấy một cụ già rất gầy và hầu như đang hấp hối. Ông nhìn tôi cười và nói một cách khó nhọc:
- Thưa Cha, cha đã đến. Cha đã không quản ngại đường sá xa xôi. Con cám ơn Cha.
- Nhưng... tại sao cụ lại ở đây! Tôi được biết là cụ đã ở đây giữ chùa, phục vụ các ngẫu thần và bỏ rơi Thiên Chúa duy nhất chân thật mà cụ đã tuyên xưng khi chịu phép rửa!
- Thưa Cha - Ông cụ rên rỉ - xin Cha hãy cúi xuống một tí để nghe con nói và hiểu giùm con. Đúng là con giữ chùa, con rung chuông, đánh trống. Nhưng chỉ vì cái này (ông phác một cử chỉ ăn uống), nhưng bên trong con nói: "Chúa ơi, xin đừng giận con, Chúa biết rằng, chỉ vì cái ăn, nhưng cái này (ông đưa tay chỉ ngực) luôn thuộc về Chúa!"
Sau lời thú nhận này, đôi mắt ông rực sáng. Tôi quỳ xuống gần bên chỗ nằm đáng thương của ông, nghe ông xưng tội và ban của ăn đàng cho ông. Ông ta tỏ vẻ sung sướng biết là ngần nào. Tôi thấy là ông chẳng còn sống được bao lâu nữa - Những cơn đau kinh khủng đang dày xé thân xác gầy mòn của ông -Tôi tìm cách an ủi, nhưng con người đang hấp hối này nói với tôi bằng một giọng vui vẻ:
- Điều đó không có gì quan trọng cả, thưa Cha, con muốn chịu đựng tất cả, vì chẳng bao lâu nữa, con sẽ được vào Nước Trời, ở đó mọi sự đều rất tốt đẹp!
Vài ngày sau, tôi nhận được tin cụ già đã qua đời một cách bình an trong ngôi chùa của cụ...

Vâng! “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

CHÚA NHẬT TUẦN 3 PHỤC SINH NĂM C



THỨ BẢY TUẦN 2 PHỤC SINH

Ga 6,16-21
Nhưng Người bảo các ông:
"Thầy đây mà, đừng sợ!"
(Ga 6,20)
1. Một chuyện nhỏ được xen vào đơn vị hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.
Chúa Giêsu để các môn đệ thực hiện một cuộc hành trình trên biển một mình lúc trời tối. Đang lúc họ chơi vơi ở giữa biển thì cuồng phong nổi lên và biển động mạnh. Các môn đệ hoảng sợ. Và chính lúc đó, Ngài đến với họ. Gặp họ, Chúa nói ngay “Chính Thầy đây, đừng sợ" (Ga 6,20). Khi nói thế, Chúa muốn dạy họ một lúc hai điều: con người rất yếu ớt mỏng dòn, con người cần sự che chở của Chúa.
Chúa cho câu chuyện này xảy ra ngay sau phép lạ hóa bánh nhiều nhằm dạy cho các môn đệ biết rằng, Chúa Giêsu chẳng những có thể ban lương thực cho con người, mà còn ban cả sức mạnh tinh thần và sự che chở an toàn cho con người nữa.
2. Trong Thánh Kinh, câu “đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để chúng ta nhắc lại mỗi ngày trong suốt một năm.
Nhà truyền giáo Moody kể: Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết nói rằng, hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống được bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung suớng nghĩ rằng, mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Chúa Giêsu Kitô, như một người con của Chúa. (Góp nhặt).
Khi Đức Giêsu bảo các môn đệ: “Chính Thầy đây, đừng sợ!" (Ga 6,20). Chúa muốn mọi người hãy biết tin tưởng vào Chúa.
Một ghềnh đá nằm trên một ngọn núi cao được gia đình chim phượng hoàng chọn làm nơi xây tổ đẻ trứng và ấp con. Từ ghềnh đá này người ta có thể nhìn thấy bao quát cảnh vật chung quanh.
Thấm thoát thời gian trôi nhanh, chim phượng hoàng mẹ nhìn con và nói
- Đã đến lúc các con phải tập bay.
- Bay như thế nào? Ba chiếc mỏ non nớt cùng cất tiếng hỏi:
Chim mẹ trả lời:
- Các con phải đi ra mép ghềnh đá rồi buông mình rơi xuống và vỗ cánh để gió nâng các con lên.
Ba chú chim con ngơ ngác nhìn nhau với những ánh mắt đầy lo sợ. Tuy thế chúng cũng vâng lời mẹ đi ra mép ghềnh đá nhìn xuống vực thẳm, nhưng rồi lại vội vàng quay trở về chui vào tổ tìm sự an toàn.
Ngày hôm sau, chim phượng hoàng mẹ cũng lặp lại lời nói hôm qua:
- Đã đến lúc các con phải tập bay.
Một chú chim con sợ hãi nói:
- Vực thẳm sâu quá!
Con khác tiếp lời:
- Chúng con sẽ phải rơi xuống tan xác mất thôi.
Và con thứ ba thú nhận:
- Chúng con sợ quá, mẹ ơi!
Nhưng chim phượng hoàng mẹ nói như ra lệnh:
- Hãy đi ra bờ vực thẳm!
Thấy đàn con không nhúc nhích, phượng hoàng mẹ nói giọng cương quyết hơn:
- Hãy đi ra mép ghềnh đá, đừng sợ!
Theo lệnh mẹ, ba chú chim con chậm rãi bỏ tổ tìm ra mép ghềnh đá. Chim mẹ nhẹ nhàng dùng mỏ đẩy ba con đi nhanh hơn. Đến nơi, một con can đảm nhảy xuống vực thẳm và tung cánh. Được gió nâng đỡ, nó vỗ những nhịp cánh đầu tiên và bay trong bầu trời cao rộng.
* Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ thuở xưa: “Thầy đây đừng sợ”. Hôm nay Chúa cũng muốn nói với chúng ta như thế.
Đây là một cuộc đối thoại được trích trong tác phẩm "Về Miền Đất Hứa" của Léon Uris trang 356-357, xuầt bản tại Sàigòn 1975 kể lại:
Năm 1884, Josi Rabbinsky, 16 tuổi và em là Yakov 14 tuổi, có ý định đi bộ từ Nga về Palestine. Họ trình bày kế hoạch cho vị Rabbin:
- Kế hoạch của chúng con như sau: Chúng con sẽ đi thẳng xuống phía Nam, băng qua xứ Caucase để sang Thổ Nhĩ Kỳ.
Vị Rabbin giơ hai tay lên trời:
- Điên rồ! Không thể thực hiện được! Các con quả thực nghĩ tới việc đi bộ ba ngàn cây số giữa mùa đông, leo qua những ngọn núi cao năm ngàn thước, không một chút giấy tờ, qua những vùng hoàn toàn chưa bao giờ biết, và với cảnh sát đuổi theo sau lưng sao?
Yakov tiến lên một bước, nhìn vị Rabbin bằng con mắt đầy cuồng nhiệt và cất tiếng đọc:
- Con đừng sợ hãi gì cả vì Ta ở với con. Ta sẽ cho gieo mầm của con về phía Tây, về phía Đông. Ta sẽ truyền cho miền Bắc giải phóng con, truyền cho Miền Nam không được giữ con, để sau cùng Ta đưa các con dân của Ta ở tận các miền xa, ở tận cùng thế giới, trở về”.
Bài giảng đầu tiên khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô cũng được mở đầu bằng hai từ “Đừng sợ”.

Vâng, kính thưa anh chị em. Chúa của chúng ta đã chiến thắng tất cả rồi. Không còn một lý do nào để chúng ta phải sợ nữa. Hãy can đảm sống và làm chứng cho Ngài. Amen.

THỨ SÁU TUẦN 2 PHỤC SINH

Ga 6,1-15
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói:
"Hẳn ông này là vị ngôn sứ,
Đấng phải đến thế gian!" (Ga 6,14)
1. Vâng! Sau khi Chúa đã giúp chúng ta tìm lại được địa vị làm con Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội, bắt đầu từ hôm nay chúng ta được Chúa nói cho chúng ta về luơng thực Ngài ban cho chúng ta. Tôi muốn nói đến Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội dựa trên bài tường thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều để nói về vấn đề này.
Phép lạ này được cả 4 quyển Tin Mừng ghi lại. Nhưng bài tường thuật của Gioan có nhiều chi tiết đặc biệt hơn:
Trước hết, Gioan xác định rõ nơi xảy ra phép lạ. Đó là phía Đông hồ Galilê, tức là vùng đất của lương dân. Tại vùng đất này mà “dân chúng theo Người đông lắm”, chứng tỏ lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.
Gioan đã coi phép lạ này như một dấu chỉ giúp người ta hiểu về màu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài chính là Bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.
2. Dân chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát: Đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.
Vâng, chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn được những khát vọng, nhất là những khát vọng sâu xa và thầm kín nhất nơi con người, vì Chúa là chính sự sống mà con người hằng mong đợi.
Tấm lòng của Chúa Giêsu thật lớn lao, thật không có gì sánh kịp. Chúa ban phát và ban phát không có giới hạn. Ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Tất cả được ăn no nê mà vẫn còn dư.
“Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý". (Ga 6,11)
Đọc lịch sử các thánh, tôi thấy thánh Gioan Don Bosco là một vị thánh có lòng sùng kính Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể một cách đặc biệt. Ngài đã rút ra được rất nhiều bài học từ bí tích này. Có lần ngài đã kể câu chuyện này cho các thiếu niên, con cái ngài yêu thương:
Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Chúa.
Dọc đường, Chúa bảo hai ông mỗi người hãy mang theo cho Chúa một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc, rồi lặng lẽ nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, đã vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:
- Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?
Chúa Giêsu nghe tất cả nhưng Ngài vẫn giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Chúa muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì mà ăn.
Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành một mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.
Rồi một lần khác, Chúa Giêsu cũng lại gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi Chúa Giêsu sẽ nói như lần trước để thưởng ông. Thế nhưng, lần này Chúa Giêsu chỉ nói với họ:
- Nào chúng ta hãy đặt những viên đá chúng ta vừa mang theo xuống đất, ngồi lên mà nghỉ một chút. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!
Phêrô thấy xấu hổ, ông trách Chúa:
- Đúng là Thầy đã chơi khăm con!
Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:
- Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ từ “5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé dâng cho Ngài”. Phải nói rằng, em bé trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho mọi người về lòng quảng đại. Đúng là em đã không tính toán một chút nào khi em dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá. Em đã dâng cho Chúa tất cả, chẳng giữ lại cho mình chút nào. Và Chúa Giêsu làm phép lạ biến bánh và cá ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá đó. Sau đó, mọi người đã được ăn no nê và thu lại được cả 12 thúng bánh vụn!
Công việc của Chúa quả là hết sức đặc biệt và ở đây chúng ta phải nhận rằng, việc Chúa làm còn quảng đại hơn nhiều, không phải chỉ với phép lạ hôm nay mà còn trong suốt lịch sử của loài người.
Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban.
Với Chúa, xin cho chúng con biết dâng trọn tấm lòng vâng phục, phó thác tri ân.

Với mọi người, xin cho chúng con luôn biết sống quảng đại, hy sinh, cảm thông, và tha thứ để chúng con hiểu được rằng, biết quảng đại trao ban như Chúa là một niềm hạnh phúc cho chúng con.

THỨ NĂM TUẦN 2 PHỤC SINH

Ga 3,31-36
 "Ai nhận lời chứng của Người,
thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật."
(Ga 3,33)
1. Đây là phần cuối của bài giáo lý về việc sinh lại: Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho chính con người: mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn của mình: “Ai tin vào Người Con thì có sự sống đời đời, còn ai không tin vào Người Con thì không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đè nặng trên người ấy”. (Ga 3,36)
Như vậy, từ đầu tuần đến hôm nay, Chúa Giêsu đã hết lời giải thích về sự cần thiết phải sinh lại, sinh lại làm sao, ích lợi của việc sinh lại thế nào và tai hại của việc không sinh lại ra sao… Hôm nay, Chúa đòi mỗi người phải quyết định và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình: Chúng ta có sẵn sàng sinh lại thành con người mới hay không?
Một cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật nghiện thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khoẻ. Thế nhưng, ông ta không chỉ nghe để mà nghe mà hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:
- Kinh Thánh không hề cấm hút thuốc.
Thấy vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.
Nhưng thật là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá. Tò mò, ngài hỏi tại sao thì ông trả lời.
- Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn có gói thuốc lá con vừa mới mua.
Chúa Giêsu hỏi con:
+ Con đang làm gì đó?
- Dạ con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.
+ Sao con không mời ta hút thuốc?
Con vội vã trả lời:
- Dạ đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!
Chúa ôn tồn bảo con:
- Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và hành động giống Ta chứ. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại sao con lại hút?
- Thưa Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng, Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ con. Bởi đó con đã quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.
Đó là một cuộc tái sinh, sinh lại rất đẹp.
2. Maurice Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành người. Con người có bổn phận phải thành người. Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại” lần sinh thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta không thể trở thành một con người trọn vẹn”. (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”).
Một bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời”.
Bà đáp:
- Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.
Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (Góp nhặt).
3. “Ai tin vào Người Con thì được sống đời đời" (Ga 3,36). Muốn sống đời đời phải biết gìn giữ ơn tái sinh.
Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.
Những người thợ săn Âu châu đã biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiển và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố…
Đối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: Chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.
Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô hữu chúng ta đã được khoác lên mình một chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu phép rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…

Lạy Chúa, Chúa đã thương cho chúng con được trở nên con của Chúa. Xin cám tạ ơn Ngài mãi mãi. Amen.

THỨ TƯ TUẦN 2 PHỤC SINH

Ga 3,16-21
"Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án;
nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi,
vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa."
(Ga 3,18)
1. Chúng ta tiếp tục bài giáo lý về việc tái sinh: hôm nay nói về hậu quả của việc sinh lại.
Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu sinh lại thì phải hư mất tức là “bị luận phạt”.
Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa không hề muốn “Luận phạt” thế gian “để cho hư mất, mà chỉ muốn cứu thế gian.”
Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con tức là chịu “sinh lại bởi đức tin” thì được cứu; kẻ không tin tức không chịu sinh lại thì “bị luận phạt” (hư mất).
Dĩ nhiên, được cứu thì tốt hơn là bị hư mất. Sống trong ánh sáng thì hạnh phúc hơn sống trong tăm tối. Thế nhưng, cũng giống như một người đang bị chìm muốn được cứu sống thì tối thiểu phải đưa tay cho người trên bờ kéo mình lên, người muốn sáng thì phải rời bỏ tối tăm để bước tới nguồn sáng.
Tại Florence thuộc nước Italia, có một ngôi đại giáo đường, được kiến trúc rất đặc biệt. Ngôi đại giáo đường này có một vòm cầu lớn. Trên vòm cầu này có một lỗ nhỏ được ghép kính.
Kiến trúc sư vẽ kiểu ngôi đại giáo đường này, đã khéo léo tính toán thế nào, để cứ đến ngày 21 tháng 6 hàng năm, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu vào lỗ nhỏ kia, rồi dọi xuống một miếng bạc, được ghép ở dưới nền giáo đường.
Người ta chỉ cần nhìn vào ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời, qua lỗ nhỏ trên vòm cầu kia, rồi dọi xuống nền giáo đường là biết được độ nghiêng của ngôi giáo đường để sửa chữa, vì ngôi đại giáo đường này được xây trên một khu vực mà trước đây là vùng xình lầy.
Trong ngày thứ bảy tuần thánh, Chúa Giêsu được Giáo Hội tuyên xưng là ánh sáng thế gian. Ánh sáng Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chiếu vào thế gian để soi đường chỉ lối cho con người.
Thế nhưng, theo như lời của Thánh Gioan, thì thế gian đã không chịu tiếp nhận ánh sáng đó, mà trái lại còn xua đuổi. Lý do nào khiến thế gian ghét ánh sáng thì Thánh Gioan đã cho biết trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Vì họ sợ những việc làm của mình bị khiển trách”. Tại sao lại sợ? Thưa, vì việc làm ấy xấu xa. Giống như ánh sáng mặt trời dọi xuống xuyên qua lỗ hổng, chiếu xuống miếng bạc được bố trí trên nền nhà thờ, làm cho người ta nhận ra được độ nghiêng của ngôi nhà thờ như câu chuyện kể trên, thì ánh sáng Giêsu chiếu dọi vào thế gian cũng làm cho con người thấy được những sai quấy của mình như thế.
Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Nhật Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời mặt trăng tuy có sáng nhưng khó mà chiếu vào chiếc chậu úp). Ánh sáng của mặt trời cũng như ánh sáng Giêsu, tuy sáng và có đó, nhưng nếu người ta không chịu tiếp nhận thì cũng vô ích, nó cũng giống như ánh sáng chiếu vào một chiếc chậu úp thôi.
2. Điều còn lại ở đây là chúng ta có đủ nhạy cảm để nhận ra ánh sáng đó hay không.
Một nhà thám hiểm Tây Phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã cạn khô. Ông lê từng bước chân mệt mỏi trên cát. Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Phương Tây, ông tự nghĩ: "Đây chỉ là một ảo ảnh, trong thực tế, giữa chốn sa mạc khô cằn như thế này làm gì có nước và cây cối". Nghĩ như vậy, ông tuyệt vọng lê bước. Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên:
- Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?
Nhưng người bạn kia lắc đầu giải thích:
- Ông ta là một người Phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Có nhiều người trong chúng ta cũng như vậy.
Hẳn anh chị em còn nhớ câu chuyện người mù ở trong Tin Mừng. Đứng trước một sự thật rõ ràng như ban ngày vậy mà những người Pharisêu vẫn tìm cách bẻ cong sự thật. Chúa Giêsu đã phải rất buồn về thái độ ấy nên Ngài đã nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!" (Ga 9,39).
Những người Pharisêu đang ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" (Ga 9,40) Đức Giêsu bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!" (Ga 9,41).

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn biết yêu sự sáng và hãy cam đảm bước đi trong ánh sáng để cho ánh sáng soi đường cho ta. Đó là một cách để được sinh lại: không còn là con của tối tăm nữa, mà từ nay sẽ là con của ánh sáng.

THỨ BA TUẦN 2 PHỤC SINH

Ga 3,7b-15
"Như ông Môisen đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,
để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." (Ga 3,14-15)
1. Hôm qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi phải tái sinh. Hôm nay, Chúa giải thích tái sinh hay sinh lại là sinh như thế nào.
Khi Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?" (Ga 3,9).
Chúa Giêsu trả lời là nhờ tác động của Thánh Linh “Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy” và nhờ tin vào Chúa Giêsu “không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời" (Ga 3,13).
“Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình”. (Mỗi ngày một tin vui)
Tái sinh chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể có việc tái sinh.
Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.
Hạt giống thứ nhất tâm sự: "Tôi muốn lớn lên. Tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu hiện báo hiệu một mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi".
Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.
Hạt giống thứ hai nói: "Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng, mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nào đó nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.
Và hạt giống đó tiếp tục chờ.
Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành và nuốt ngay vào bụng. Thế là hết đời một hạt giống.
David L. Weatherford đã nói rất hay: "Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tìm cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát". (Jack Canfield and Mark Victor Hansen, chicken)
2. Phải nói là con đường làm cho mình trở nên một con người mới là một con đường rất khó đi, nhưng chỉ khó với những ai thiếu niềm tin và thiếu ý chí, còn đối với những người có đức tin mạnh và một chí khí can cường, thì nhất định sẽ thành công.
Một hôm bà chị của thánh Thoma Aquinô hỏi một người:
- Phải làm gì để hưởng hạnh phúc đời đời?
Người ấy trả lời:
- Phải muốn được như thế.
Vâng! Đúng như vậy, trước hết là chính mình phải muốn, muốn một cách mạnh mẽ.
Khi thánh Phanxicô đệ Salê nghe tin thánh Phanxicô Xavie được phong thánh. Ngài nói:
- Đó là Phanxicô thứ ba được phong thánh. Tôi sẽ phải là thánh Phanxicô thứ bốn.
Và người đã giữ lời hứa và ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ 4 của Hội Thánh.
Phải muốn và đồng thời cũng phải dám hy sinh. Chính Chúa Giêsu cũng đã cho biết con đường theo Ngài là con đường hẹp!
Ông Francois Piza người hùng đã chiến thắng đất Pérou trong một cuộc thám hiểm. Trong khi đi thám hiểm, có lúc phái đoàn của ông đã bị đặt vào một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Vì không chịu được những gian nan trước mắt, đám thủy thủ đã nổi dậy đòi ông phải quay trở về, nhưng Piza trả lời:
- Phía bắc con đường chúng ta đang đi là một cuộc sống dễ dàng và không nguy hiểm. Đi theo hướng đó chúng ta sẽ thất bại và khổ sở. Trái lại, nếu hướng về phía nam, chúng ta sẽ phải cắn răng chịu đựng những khó khăn, đương đầu với những thách đố, cam chịu những thiếu thốn, nhưng thành công, hạnh phúc, giàu sang, vinh hiển sẽ tiếp đón chúng ta. Vậy, các anh hãy tự chọn con đường đi.
Gần hết đám thủy thủ đã chọn con đường phía bắc quay trở về. Chỉ có 12 người biết theo con đường Piza đã vạch. Và 13 người can đảm ấy, sau những ngày gian nan khốn khó, cay đắng trăm bề, tất nhiên là phải chịu nhiều thiếu thốn, nhưng họ vẫn không chịu lùi bước trước khó khăn, và cuối cùng họ đã thành công.
Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã phải tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: "Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!"

Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy, thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào.

THỨ HAI TUẦN 2 PHỤC SINH

Ga 3,1-8.
Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật ông:
không ai có thể vào Nước Thiên Chúa,
nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí." (Ga 3,5)
1. Phụng vụ hôm nay dùng cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô để nói về Bí tích Rửa Tội (Trong bài Tin Mừng hôm nay được gọi là Bí tích Tái sinh).
Chúa xác định một cách hết sức rõ rệt: cần thiết phải sinh lại.
“Thật, tôi bảo cho các ông biết: Nếu ai không sinh lại bởi ơn trên thì chẳng thấy được Nước Thiên Chúa" (Ga 3,3). Việc “Sinh lại” ở đây không được hiểu theo nghĩa thể lý: “Một người đã già làm sao có thể sinh lại? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?" (Ga 3,4) mà phải hiểu theo nghĩa thiêng liêng: “sự gì sinh bởi huyết nhục thì là huyết nhục, và sự gì sinh bởi Thần Linh thì là Thần Linh" (Ga 3,6).
Như vậy, người Kitô giáo có hai lần sinh ra. Một sinh ra làm con người và một sinh lại để trở thành con Thiên Chúa.
Để được thành con người chúng ta đã phải cố gắng. Maurice Zundel đã viết: “Chúng ta không sinh ra đã thành con người (…) Con người có bổn phận phải thành người.”
Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại”, sinh lần thứ hai để trở thành con Thiên Chúa. Làm người đã là khó; làm con Thiên Chúa chắc là phải khó hơn.
Để trở thành con Thiên Chúa, con người phải được sinh ra bởi nước và Thần Khí.
Đây là một cuộc tạo dựng mới. Với quyền năng của Thiên Chúa, Thần Khí đã tạo dựng nên con người mới: con người trở thành con Thiên Chúa.
2. Bí tích Rửa tội cho tôi sinh lại, để tôi thành con của Chúa. Nhưng “làm con Chúa” chỉ mới như một hạt giống, tôi cần phải vun trồng cho nó phát triển thành cây. Với thời gian, nhiều khi tôi bị người “con của thế gian” chèn ép khiến hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi trở nên èo uột, méo mó. Bởi vậy, tôi cần phải sinh đi sinh lại mãi cho đến khi tôi được trở nên đồng hình dồng dạng với Chúa.
Bên Mỹ có một cuốn phim với tựa đề là: “Người Mưa” được tung ra thị trường phim ảnh Hoa Kỳ mấy năm trước đây. Mục đích của cuốn phim này là muốn người ta thấy con người có thể trở nên tốt như thế nào.
Một gia đình kia có ba người: người cha và hai người con. Hai người con thì một người tên là Charley và còn người kia tên là Raymond. Tuy là hai anh em nhưng họ không biết nhau. Người anh tên là Charley là một thương gia giàu có, còn Raymond, người em thì bị tàn tật từ nhỏ. Charley không hề hay biết mình có người em tên là Raymond và hơn nữa lại là một người tàn tật mãi cho đến ngày cha của hai người qua đời. Cái chết của người cha đã đánh dấu một khúc rẽ mới trong đời sống của hai anh em. Trước khi nhắm mắt lìa đời, trong tờ di chúc, người cha đã ký lại cho Raymond, người con tàn tật một số tiền khổng lồ là 3 triệu mỹ kim, còn Charley thì được thừa kế một ngôi biệt thự rộng lớn. Charley rất ngạc nhiên trước lời trăn trối của người cha, và kể từ ngày đó anh tìm đủ mọi mưu kế, học mọi thủ đoạn để chiếm đoạt số tiền của em. Anh lý luận: dầu sao đi nữa, em mình là một người tàn phế như thế làm sao có thể tiêu xài hết một số tiền lớn như vậy. Charley nghĩ như thế là để bào chữa cho lòng tham của mình chứ thực sự thì Charley đâu có quan tâm gì đến em mình.
Cuốn phim được tiếp diễn với nhiều thủ đoạn, những mưu mô khôn khéo để chiếm cho bằng được số tiền đó. Nhưng trớ trêu thay, chính những bận tâm ấy đã làm cho Charley luôn nghĩ tới người em hơn là bản thân mình. Anh nhận ra rằng, đây là lần đầu tiên anh biết quan tâm lo lắng cho người khác. Và anh cũng bắt đầu ý thức thêm rằng, anh đang quên mình đi để nghĩ đến người em, anh đang chết dần cho bản thân mình và chỉ nghĩ đến người em đáng thương ấy. Và thật không ngờ khi anh làm như thế thì anh bắt đầu cảm thấy tình yêu của anh đối với người em được thay đổi. Lúc đầu thì toàn là những tính toán ích kỷ nhưng dần dần được thay thế bằng lòng yêu thương thật sự đối với đứa em tàn tật của anh. Bây giờ thì anh không còn nghĩ đến việc chiếm hữu số tiền do người cha di chúc để lại cho em mình nữa, mà anh chỉ nghĩ đến việc lo lắng chăm sóc cho đứa em tật nguyền của mình. Anh đã trở thành một con người mới, một con người trọn vẹn hơn vì anh đã biết sống với người em của anh như là người em thực sự, con cùng một cha chứ không phải là đối thủ để anh trục lợi và khai thác.
Vâng, phép Rửa tội cũng làm một việc tương tự như thế, biến chúng ta sẽ trở thành người con của Thiên Chúa và khi đã được trở thành những người con của Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải sống với nhau như anh em trong cùng một gia đình của Thiên Chúa Cha trên trời.
Lạy Chúa, xin biến đổi con

Để con trở thành một tạo vật mới theo hình ảnh Chúa. Amen.

TRUYỀN TIN 2016

Anh chị em thân mến
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính một trong những biến cố quan trong nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Biến cố sứ thần của Thiên Chúa truyền tin cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Nói về Đức Mẹ như lời thánh Bernađô thì "chẳng bao giờ cho đủ". Mỗi lần nói về vai trò của Đức Mẹ trong công trình cứu chuộc của Chúa thì chúng ta thường hay nghĩ đến cách thức Chúa thực hiện những việc lạ lùng nới con người của Đức Mẹ hơn là nghĩ đến những yếu tố đặc biệt khiến Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn. Thậm chí chúng ta còn thấy nhiều nhà tu đức còn cho là Thiên Chúa luôn có quyền làm theo ý muốn của mình. Họ cho rằng việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ quê mùa, nghèo khó để làm Mẹ Thiên Chúa là cốt ý để làm bẽ mặt những kẻ quyền thế, giầu có sang trọng ở trong thế gian.
Tôi không phủ nhận ý kiến đó. Thế nhưng đối với tôi nếu chỉ nghĩ về Thiên Chúa như thế thì chưa đủ. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng hành động khác thường. Có những lúc Ngài cũng hành động theo những qui luật bình thường. Nói như thế là tôi muốn nói tới những lý do khiến Chúa đã đặc biệt để ý đến Đức Mẹ và tuyển chọn Ngài vào một công tác rất quan trọng trong chương trình cứu độ của Người.
Thế thì Đức Mẹ đã có những yếu tố nào để Thiên Chúa làm như thế?. Tôi thấy nơi Đức Mẹ có hai nhân đức rất quan trọng này:
Trước hết đó là lòng kính sợ Thiên Chúa
Thứ đến là sự khiêm nhường.
a - Lòng kính sợ Thiên Chúa.
Sách khôn ngoan nói : “Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan" Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.
+ Trước hết vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Người. Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay. Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của sứ thần Grabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.
+ Thứ đến là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Trong việc đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập.
Trong việc đưa Chúa Giêsu trở về.
Nhất là theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha.
b - Đức tính đặc biết thứ hai của Đức Mẹ đó là lòng khiêm nhường.
Các nhà tu đức học đều coi "Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức". Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:
- Đức Mẹ đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương" làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém……
- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tì hèn mọn"
" Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả"
Vâng tất cả là bởi Thiên Chúa .
"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường.
Thiên Chúa đã ban đầy dư cho nhũng kẻ nghèo, còn người giầu có thì Người đuổi về tay không.
 Phải có một lòng khiêm nhương thật thẩm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Evà thuở xưa có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn điạ đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.
Trong thi tập: “Người Làm Vườn”, thi hào Tagore của Ấn Độ đã ca ngợi người đàn bà như sau:
Hỡi người đàn bà! Người không chỉ là tuyệt tác của Thượng Đế. Người còn là công trình của con người. Chính con người vẫn mãi mãi tiếp tục tô điểm cho người bằng tâm tình của họ.
Các thi sĩ dệt cho người một mạng lưới của những vần thơ óng ả.
Các hoạ sĩ mặc cho người một chiếc áo choàng bất tử.
Biển khơi dâng hiến cho người ngọc ngà châu báu.
Người thợ mỏ mang vàng đến cho người.
Người làm vườn ôm ấp vỗ về người bằng muôn hoa cỏ đồng nội. Khát vọng của lòng người đã trải dài vinh quang của họ trên tuổi xuân của người. Hỡi người đàn bà! Người một nữa là đàn bà một nữa là mộng mơ.
Anh chị em thân mến.
Những vần thơ trên đây đáng được dành riêng để ca tụng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Mẹ Maria tuyệt mỹ, bởi vì Mẹ giống Chúa Con. Mẹ giống Chúa Con là bởi vì cả cuộc sống lúc nào Mẹ cũng tuân theo thánh ý Chúa. Trước khi được liên kết với Chúa Giê-su bằng máu mủ ruột thịt, Mẹ đã được liên kết với Ngài bằng hai chữ “xin vâng”.
Lạy Mẹ, chúng con thật hạnh phúc vì được gọi Mẹ bằng chính âm thanh mà chính Chúa Giêsu đã từng gọi trong suốt cuộc đời của Ngài. Mẹ được Chúa Giê-su gọi bằng mẹ không những vì đã sinh ra Chúa mà còn bởi vì Mẹ đã sống vâng phục như Thiên Chúa như chính Con của Mẹ.

Xin mẹ hãy phù giúp chúng con biết nhìn ngắm Mẹ và nhờ đó mỗi ngày một trở nên giống Con Mẹ hơn. Amen.