Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016
Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016
THỨ BẢY TUẦN 3 PHỤC SINH
Lời Chúa : Ga 6,60-69
“Thưa
Thầy, bỏ Thầy thì
chúng con biết đến với ai?”
(Ga 6,68)
chúng con biết đến với ai?”
(Ga 6,68)
Nhiều người
bỏ đi vì cho là những Lời Chúa nói chói tai, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ
hôm đó, có nhiều người môn đệ rút lui không theo Ngài nữa”. (Ga 6,66)
Rõ ràng
là hành trình đi theo Chúa không luôn êm ả. Một ngày nào đó, có thể Lời Chúa
cũng làm chúng ta chói tai và chúng ta muốn rút lui.
Đức hồng
y Carlo Martini, nguyên là tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong
quyển chú giải Tin Mừng thánh Gioan, câu chuyện sau đây: Vào thế kỷ thứ ba,
trong Giáo Hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ đời sống tu trì... Để giải
thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã mượn câu chuyện chó đi săn thỏ để
giải thích.
Một chú
chó trong đàn bất chợt phát hiện ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn,
vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Chẳng mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời
hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó đã chạy ùa theo.
Tất cả mọi
con chó đều chạy, nhưng kỳ thực chỉ có một con chó đã phát hiện nhìn thấy con
thỏ, còn những con khác thì không. Sau một hồi săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả,
cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì chúng không nhìn thấy con thỏ đâu. Duy chỉ có chú
chó đầu tiên đã phát hiện ra con thỏ thì vẫn tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Rồi vị tu sĩ trên đã đưa ra kết luận như sau:
Đã có rất
nhiều tu sỹ đi theo Chúa, nhưng chỉ có một ít thực sự nhìn thấy Chúa và họ biết
họ đang theo đuổi điều gì. Số khác đã chạy theo, hoặc vì bị lôi cuốn bởi đám
đông, hoặc vì họ nghĩ rằng, họ đang làm một điều tốt, nhưng rồi thời gian đã
làm họ thay đổi và bởi vì họ chưa bao giờ thấy rõ Chúa là lý tưởng, nên khi gặp
khó khăn, thử thách là họ bắt đầu chán nản và bỏ cuộc.
Cuộc sống
của người Kitô hữu cũng có thể được ví như một cuộc đi săn. Có những lúc chúng
ta rất sốt sắng, hăm hở trên con đường theo Chúa, chúng ta sẵn sàng nói lời cam
kết với Chúa. Thế nhưng, nếu không cẩn trọng thì vào một lúc nào đó, khi không
còn thấy gì hấp dẫn trước mắt trên con đường theo Chúa nữa, thì biết đâu chúng
ta cũng lại giống như một số các môn đệ của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau
đó, Chúa Giêsu hỏi nhóm 12, Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng: "Lạy Thầy, bỏ
Thầy, chúng con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời"
(Ga 6,68).
Phải nói
đây là những lời tâm huyết luôn biết đặt Chúa lên trên tất cả. Giữa lúc tâm hồn
đang bị dao động trước sự tháo lui của một số anh em mà Phêrô còn nói lên được
những lời thật mặn nồng như thế, chắc Chúa phải cảm động lắm.
Vâng phải
thấy Chúa là tất cả, thì Phêrô mới có thể tuyên bố như vậy.
Odette, một
cô gái xinh đẹp sinh ra trong một gia đình quí tộc nước Bỉ. Năm 17 tuổi cô quyết
định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ đến bắt cô trở về. Từ
lâu, ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.
Vốn biết
cô con gái cưng không muốn lập gia đình, nên cha mẹ cô đã âm thầm chuẩn bị hôn
lễ, các thiệp mời đều được kín đáo gởi đi và sự chuẩn bị đều giữ bí mật cho đến
giờ chót.
Một buổi
sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vén màn nhìn qua
cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu
đài. Hỏi đầy tớ gái, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó,
các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Xong, họ đưa cô xuống
nhà nguyện tư của lâu đài. Giám mục của vùng và linh mục tuyên uý lâu đài
đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến
phần giao ước, vị chủ tế hỏi Odette có ưng nhận Simon làm chồng theo luật
Giáo hội không? Cô dõng dạc tuyên bố:
- Con
không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng bởi vì tình yêu
và đức tin của con đã hiến dâng cho Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một
tình yêu nào cho dù sự hăm dọa, có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn
trăm năm duy nhất của đời con.
Sáng hôm
sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào
phòng. Và kìa, Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu
ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt
chiếc mũi xinh đẹp. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô
thản nhiên đáp: “như thế sẽ không còn ai cấm con đi tu nữa.”
Thật
vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu
làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.
THỨ SÁU TUẦN 3 PHỤC SINH
Lời Chúa : Ga 6,52-59
“Đây
là bánh từ trời xuống,
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
(Ga 6,58)
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
(Ga 6,58)
Hôm nay
Chúa Giêsu nói thêm về bánh ban sự sống, là thịt và máu Ngài: “Ai ăn thịt Tôi
và uống máu Tôi thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54).
Câu nói
này đã khiến những người Do Thái tranh luận với nhau. Sở dĩ họ tranh luận là vì
trong họ có người hiểu theo nghĩa đen (ăn thịt sống của Chúa Giêsu) có người hiểu
theo nghĩa bóng (tin vào Ngài).
Phần Chúa
Giêsu, Ngài muốn hiểu theo nghĩa nào?
Thưa theo
nghĩa đen. Chúa Giêsu đã dùng những động từ rất mạnh và rất cụ thể là trôgô
nghĩa là “nhai”, lấy răng mà nhai một thứ nào đó. Và động từ trôgô này được lập
đi lập lại nhiều lần (các câu 53-54). Rồi Ngài tuyên bố dứt khoát “Thịt Tôi thật
là của ăn và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55).
Bí tích
Thánh Thể, là bí tích Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho
loài người.
Vâng, việc
Chúa Giêsu làm thật khó hiểu nhưng Lời Chúa quả là rất rõ ràng.
Từ xưa đến
giờ, ngoài những người ở bộ lạc bán khai bên Phi châu trước kia là những người
ăn thịt người, còn đối với những nơi khác thì việc ăn thịt người là một việc vô
cùng họa hiếm. Sử sách có ghi lại một ít trường hợp ăn thịt người. Thí dụ xưa ở
bên Trung hoa vào đời Xuân Thu, công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách
quê người, gặp lúc lương thực không có, công tử lại không ăn được rau cỏ dại
trong rừng, thấy vậy Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi mình nấu canh cho Trùng
Nhĩ ăn.
Gần đây
bên Pháp, dân Paris đã phải rởn tóc gáy vì mẫu tin: một sinh viên gốc Nhật giết
một cô gái, chặt ra từng khúc, bỏ vào tủ lạnh và định ăn dần cho đến hết. Khi bị
bắt, anh ta khai. Cô gái ấy là người yêu của anh. Anh yêu cô đến độ muốn biến
cô thành máu thịt của chính mình nên đã giết đi và ăn thịt. Chỉ tiếc rằng, anh
mới ăn có vài ngày đã bị phát giác.
Khi lập
phép Bí tích Thánh Thể, Chúa đã muốn hiến chính thịt máu ngài làm của ăn của uống
nuôi linh hồn chúng ta hằng ngày.
Chỉ có
quyền năng của Thiên Chúa mới có thể thực hiện được một công việc kỳ diệu như
thế.
Chúng ta
hãy cảm tạ ơn Chúa và xin Chúa cho chúng ta được hết lòng yêu mến Bí Tích Thánh
Thể và năng chạy đến với Chúa Giêsu để được ngài bổ dưỡng.
Người ta
kể lại rằng, khi mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên Xô, Liên Xô có ngỏ ý xin mẹ cho lập
chi nhánh của Dòng mẹ ở đó. Mẹ đã đồng ý nhưng với một điều kiện: xin cho có một
Linh mục dâng Thánh lễ cho các nữ tu mỗi ngày. Mẹ giải thích: sở dĩ các nữ tu
có đủ tinh thần nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi,
phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Máu Chúa mà họ rước mỗi ngày.
“Thịt
Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55).
Chúa ban
Mình Máu Thánh của Người cho chúng ta...qua đó Chúa cũng muốn dạy chúng ta bài
học biết chia sẻ cho nhau như Chúa.
Vào thời
gian đạo Công giáo bị cấm đoán, một thương gia Công giáo người Đức đã đi lên miền
Bắc cực. Vì công việc làm ăn, ông phải lưu lại đó suốt mùa Giáng Sinh.
Biết ông
là người Công giáo, một gia đình ở đó đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với
họ vào đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh chiếc bàn nhỏ.
Đúng nửa đêm họ cùng nhau cầu nguyện.
Sau lời
chào chúc bình an, lời nguyện và bài Kinh Thánh, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra
một hộp nhỏ. Trong hộp có một khăn thánh đã úa vàng theo thời gian.
Vừa nâng
chiếc khăn lên, ông già vừa run run cất giọng nói:
- Cách
đây 50 năm, thánh lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất chúng ta đang sống đã
được dâng trên khăn thánh này. Lúc ấy tôi là một thanh niên giúp lễ. Đây là vật
duy nhất còn lại. Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên khăn này.
Sau khi
nghe những lời ấy, mọi người quì gối và ông bố dâng lời cầu nguyện:
- Lạy
Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gửi các linh mục đền để chúng con được
phúc mừng lễ Giáng Sinh, để chúng con lại được dự phần vào Mình và Máu Chúa.
Người
thương gia Đức bồi hồi cảm động. Ông khao khát lãnh nhận Thánh Thể, một sự khao
khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến nhà thờ dự lễ hàng ngày.
Có bao giờ
chúng ta cảm thấy xa bàn tiệc thánh như những người trong câu chuyện trên?
Được tham
dự thánh lễ, được đón nhận Mình Máu thường xuyên, có lẽ ít khi chúng ta có được
lòng khao khát Chúa mạnh như thế. Hơn nữa, vì quá quen, có thể có những lúc
chúng ta cảm thấy nhàm chán, hoặc làm cho qua lần chiếu lệ.
Chúng ta
hãy xin Chúa cho chúng ta được lòng khao khát đến với Chúa mỗi ngày.
THỨ NĂM TUẦN 3 PHỤC SINH
Lời Chúa : Ga 6,44-51
"Tôi
là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
(Ga 6,51)
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
(Ga 6,51)
Tiếp tục
ý tưởng hôm qua về “đến với” và “tin vào” Chúa.
Việc “tin
vào” Chúa Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác
hai phía:
Phía
Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” để con người tin và đến với Ngài:
"Không ai đến được với Tôi nếu cha Tôi là Đấng sai Tôi không lôi kéo kẻ ấy"
(Ga 6,44).
Được lôi
kéo rồi con người còn phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa nữa: “Ai nghe lời
giáo huấn của Cha thì đến với Tôi” (câu 45).
Tóm lại,
việc “tin vào” Chúa Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa muốn và luôn tạo
điều kiện để con người thực hiện. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương
Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
Việc quan
thái giám xứ Êthiốp được ơn trở lại với Chúa trong Sách Tông Đồ Công Vụ là một
thí dụ. Qua sự việc này, ta thấy có hai yếu tố quan trọng: một là ông ta là người
đang nghiên cứu Kinh Thánh, hai là thiên sứ sai ông Philipphê đến để giúp ông
ta. Việc thiên sứ thúc giục ông Philipphê đến với quan thái giám cho thấy, đức
tin là một ơn do Thiên Chúa ban, nhưng thường qua trung gian một con người. Con
người làm trung gian ở đây là ông Philipphê.
Qua sự việc
này chúng ta có thể hiểu được những gì Chúa nói hôm nay: “Chẳng ai đến với Tôi
được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44). Đến với
Chúa Kitô là một ơn huệ Thiên Chúa thúc giục. Ai đến với Đức Kitô và tin vào
Người, sẽ có sự sống đời đời. Có Đức Kitô trong mình là ta được sống trong thế
giới của Thiên Chúa, được sống sự sống trường sinh.
Nếu xưa
Philipphê đã là trung gian cho quan thái giám xứ Êthiốp để ông được Chúa ban
cho ông ơn đức tin, thì ngày nay người Kitô hữu cũng phải làm trung gian để những
người chung quanh mình tìm đến với Chúa, để họ cũng có được ơn đức tin như vậy.
Bà J.
Scaggs, một giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành ở Nigéria, châu Phi, đã kể lại
câu chuyện cảm động sau đây:
Một ngày
kia bà được mời đến dự lễ Giáng Sinh được tổ chức tại Grace Camp, một trung tâm
điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên bà chứng kiến một số người cùi đông như vậy. Buổi
lễ được tổ chức ngoài trời. Nhìn chỗ nào bà cũng thấy những người ngồi dự lễ. Gốc
cây, ụ đất, bãi cỏ... chỗ nào cũng đông nghẹt người. Bà thấy họ thật đáng
thương, bệnh tật gậm nhấm dần và hủy hoại thân thể họ, nhưng khuôn mặt người
nào cũng bày tỏ niềm vui, mắt họ sáng ngời khi họ hát những bài thánh ca Giáng
Sinh.
Đến phần
công bố Lời Chúa, mục sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay lên
đọc sách Thánh, ông phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay.
Sau bài giảng, mục sư mời người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban cho
mình, người bệnh cùi ấy giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên, ông nhỏ nhẹ
nói:
- Tôi muốn
cảm ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã cho tôi bị cùi.
Bà Scaggs
lấy làm lạ, nói với người thông dịch rằng, anh ta dịch sai. Không ai lại có thể
cám ơn Chúa vì "được cùi" bao giờ. Người thông dịch tiếp tục dịch lại
lời người bệnh đang giải thích nguyên do:
- Nếu tôi
không bị cùi, có thể tôi đã không bao giờ biết Chúa, không bao giờ cảm nghiệm
được tình yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi
đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm
nghiệm được tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang
săn sóc trợ giúp tôi!
3. "Tôi
là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh
Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51)
Trong một
cuôc họp mặt đông đảo của những người Kitô hữu, tại một nhà thờ ở Tây Đức, để
tiếp đón mẹ Têrêsa Calcutta, người ta dâng lên cho mẹ một bó hoa tuyệt đẹp.
Bỡ ngỡ
trước lòng quí mến và trọng kính mà cử tọa dành cho mình, mới đầu mẹ Têrêsa tỏ
ra hơi lúng túng. Nhưng sau đó vài giây, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã
ôm bó hoa, đi thẳng lên trên cung thánh, quì gối trước bàn thờ, rồi đặt bó hoa
mà mẹ vừa được trao tặng, trước nhà tạm.
Cử chỉ
này của mẹ Têrêsa cho thấy, Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ
đó mẹ đã kín múc lấy cho cuộc sống dấn thân và phục vụ cách vô vị lợi của mẹ.
Thánh
Gioan Tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con
Một yêu dấu của Ngài cho thế gian” (Ga 3,16).
Thực vậy,
còn hình thức nào để thể hiện sự chấp nhận tình thương của Thiên Chúa cho bằng
ăn “bánh Giêsu”. Mà điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là tin và yêu.
Đó là điều
chúng ta cần cầu xin cho nhau mỗi ngày.
THỨ TƯ TUẦN 3 PHỤC SINH
Lời Chúa : Ga 6,35-40
"Ai
thấy Người Con và tin vào Người Con
thì được sống muôn đời,
và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
(Ga 6,40)
thì được sống muôn đời,
và Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
(Ga 6,40)
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến
với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Đức tin
vào Chúa Giêsu phải thể hiện qua việc đến với Ngài. Đó là điều kiện tiên quyết
để được hạnh phúc, được sống đời đời. Nhưng như thánh Phaolô nói: Làm sao tin
được, nếu không được nghe; làm sao nghe được, nếu không có người rao giảng; và
làm sao rao giảng, nếu không được sai đi (Rm 10,14). Tất cả những ai tin Chúa,
thì cũng ý thức sứ mạng được sai đi để nói về Chúa cho người khác, nhờ đó họ mới
có thể đến với Chúa và tin vào Chúa. Cộng đoàn Giáo Hội tiên khởi đã ý thức về
sứ mạng đó, cho nên đi tới đâu, họ cũng rao giảng cho người khác biết về Chúa.
Khi nói về sinh hoạt của Giáo Hội tiên khởi, các sử gia cho rằng, sở dĩ người
Kitô hữu đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, là vì họ không truyền bá Tin Mừng bằng
sách vở, mà là bằng đời sống gương mẫu của họ.
Tuy
nhiên, không phải chỉ có việc tin vào Chúa, mà còn phải lãnh nhận Mình Máu
Chúa. Đây là điều không dễ chấp nhận trên bình diện nhân loại, nhưng Chúa Giêsu
đã mạc khải sự thật này.
“Ý của Đấng
đã sai tôi là tất cả những kẻ người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai”
(Ga 6,39).
Cha
Matthêô, vị tông đồ của Phong trào tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong các gia
đình, thuật lại một câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mình:
Tôi ở Lộ
Đức, khi vừa giảng xong tôi bước xuống khỏi hang đá, khá mệt. Một nông dân tiến
lại gần, cầm tay tôi và nói:
- Có phải
cha là người vừa giảng ở Vương Cung Thánh đường không?
- Vâng!
- Ồ quí
hóa quá. Từ nhiều năm nay con vẫn dâng việc rước lễ hàng ngày và giờ thờ lạy
Mình Thánh Chúa mỗi tuần của con, để xin Trái Tim Chúa ngự trị trong mọi gia
đình, và cha vừa giảng với mục đích ấy.
Tôi nói với
ông:
- Hãy đến
khách sạn với tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện lâu dài với nhau.
- Đến
khách sạn với cha ư? Thưa cha không thể được, vì con còn có xe bò. Con không thể
để xe và các con bò ở đây để đến với cha ngay được.
- Vậy tối
nay, 8 giờ đến nhé.
- Tối
nay, 8 giờ. Dạ, được.
Ông ta đến
và chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau đến nửa đêm. Người nông dân nói chuyện
như một nhà thần học có tầm cỡ. Cuối cùng, tôi nói với ông:
- Ông muốn
trở thành bạn của tôi không?
- Thưa
cha, muốn lắm chớ.
- Vậy các
người bạn thường viết thư cho nhau, ông nhớ viết thư cho tôi nhé.
Bác nông
dân lắc đầu lia lịa:
-Thưa
cha, con không biết đọc và biết viết.
Tôi ngạc
nhiên hỏi:
- Vậy ông
học ở đâu được tất cả những gì ông vừa nói với tôi thế?
Đến lượt
ông ngạc nhiên:
- Ở đâu
ư? Cha hỏi con học ở đâu khi mỗi ngày cha đều dâng lễ. Ở bên Người, bên Chúa,
chính Người là vị thầy duy nhất của con.
Và đây là
trang nhật ký của một Linh mục:
“…Đức
Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự
khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một
tình yêu thiết tha tung cánh…Rồi chẳng biết từ đâu, Triết Đông và Phật Giáo len
lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì
mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình
trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng
mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám
mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về
nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giêsu cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời
nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm
…Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động
trong nhà nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi
tôi phải đền bù.
Một đêm
trước khi làm Linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát nhà chầu. Có cái gì
đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời
và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi,
dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cả cuộc
đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên
huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…
Lạy Chúa,
chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn được
Ngài yêu thương và Ngài khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata).
THỨ BA TUẦN 3 PHỤC SINH
Lời Chúa : Ga 6,30-35
"Chính
tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
(Ga 6,35)
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
(Ga 6,35)
1. Chúa
Giêsu bắt đầu giải thích về thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”:
Thứ của
ăn đó vượt trội hơn manna ngày xưa.
Nghe thế,
dân chúng tưởng đó là một thứ thức ăn - cũng vẫn là vật chất - nhưng ăn vào thì
sẽ không đói nữa, nên họ xin “Thưa Ngài, xin Ngài cho chúng tôi bánh đó luôn
mãi” (Ga 6,34).
Thái độ của
dân Do Thái rất đáng chúng ta suy nghĩ: nhớ tới manna ngày xưa, họ chỉ nghĩ rằng,
đó là thứ bánh vật chất nhưng ngon hơn thứ bánh ngày thường, cho nên họ cầu xin
với Chúa Giêsu cho họ thứ lương thực vật chất đó để giúp họ no lâu hơn. Nhiều
người trong chúng ta, khi đến với Chúa có lẽ cũng chỉ để xin những nhu cầu thoả
mãn cho cuộc sống vật chất như thế.
Ở đây,
chúng ta thấy Chúa muốn nói đến một thứ lương thực khác. Chúng ta phải nhớ những
hình ảnh trong Tin Mừng Gioan luôn mang hai ý nghĩa: nghe tới “đói” phần xác thịt,
thì phải nghĩ tới cơn đói tinh thần, thấy thức ăn vật chất, thì hãy nghĩ tới thức
ăn tinh thần.
Chúng ta
thấy mỗi khi ăn, chúng ta làm điều mà không nhà khoa học nào có thể làm: ta đưa
vào trong mình một lượng vật chất để giúp ta có sự sống. Thức ăn trở nên thành
phần của cơ thể ta. Sức khỏe của ta lệ thuộc vào thức ăn. Một câu tục ngữ xưa
nói: “Bạn là những gì bạn đã ăn”.
Thức ăn
giàu chất dinh dưỡng: chúng ta sung sướng béo mập; ăn vặt: chúng ta sẽ bị suy
dinh dưỡng. Biết thế nên Chúa Giêsu quyết định ẩn mình trong tấm bánh và trở
nên lương thực cho linh hồn của những kẻ theo Ngài (Góp nhặt).
2. Đức
Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi, không hề phải
đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35).
Vâng,
Chúa Giêsu đã trở thành bánh trường sinh cho tất cả những ai tin vào Người.
Công việc xem như không thể nhưng với Chúa thì tất cả đều có thể.
Người ta
kể lại rằng, có lần thánh nữ Gertruđê đang suy niệm về bí tích Thánh Thể và tự
hỏi không biết làm sao mà Chúa lại có thể tự hạ mình xuống thấp như thế, để hiện
diện trên bàn thờ dưới hình bánh, thì chính Chúa Giêsu đã hiện ra và cắt nghĩa
cho bà. Người cắt nghĩa bằng một câu chuyện sau. Người nói:
Một hoàng
tử nhỏ ở trong một lâu đài rộng lớn với đủ loại đồ chơi, ngày kia nhìn qua cửa
sổ và thấy các đứa bé nghèo chơi trên đường. Thấy hoàng tử nhìn qua cửa sổ như
thế, người giám hộ liền hỏi:
- Hôm
nay, hoàng tử muốn ở chơi trong lâu đài hay muốn ra ngoài chơi với các đứa bé
trên đường phố?
- Tôi muốn
ra ngoài chơi với chúng.
Được
phép, hoàng tử khoác vào người bộ đồ cũ nhất và cả ngày chơi với các trẻ nghèo.
Đây là một trong những ngày hạnh phúc nhất của cậu bé chốn cung đình.
Rồi Chúa
nói với thánh Gertruđê:
- Ta giống
như vị hoàng tử nhỏ kia. Ta muốn ở với con người, đàn ông cũng như đàn bà. Bất
cứ ai không đến với Mình Thánh hoặc ngăn cản kẻ khác đến rước lễ, kẻ ấy lấy mất
đi của Ta một niềm vui lớn.
Chúng ta
hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để luôn có được niềm vui.
Bà Marthe
Robin một trong những người được in năm dấu thánh. Bà đã qua đời cách đây không
lâu.
Hơn 30
năm trời bà không ăn uống gì, chỉ sống bằng Mình Thánh Chúa. Tôi xin nhắc lại:
hơn 30 năm. Vâng, 30 năm trời như vậy, mỗi ngày có một linh mục đem Mình Thánh
Chúa đến cho bà. Và mỗi khi linh mục đem Mình Thánh Chúa đến thì ngài có cảm tưởng
y như Mình Thánh bay từ tay mình vào thẳng nơi miệng bà thật sự. Bà âm thầm sống
trong một căn nhà nho nhỏ, có cha linh hướng săn sóc, đi đâu cha cũng khóa cửa
lại, vì bà chẳng cần ăn uống gì hết.
Tuy mắt
đã mù, không đọc sách báo cũng chẳng nghe được đài phát thanh, nhưng mỗi lần có
ai xin bà việc gì, thì bà trả lời như thể bà đang nghe thấy tất cả những tin tức
cuối cùng và mới mẻ nhất về nơi chỗ diễn tiến của sự việc vừa xảy ra. Làm sao cắt
nghĩa được sự kiện lạ lùng này nếu không tin vào quyền năng của Thiên Chúa!
Lạy Chúa,
chỉ mình Chúa, Ngài mới là tấm Bánh Thánh nuôi dưỡng cho con,
Nhưng con lại có thể bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Nhưng con lại có thể bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Lạy Chúa,
chỉ mình Chúa,
Ngài mới là Chén Máu Thánh bổ sức cho con,
Nhưng con lại có thể quảng đại mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Ngài mới là Chén Máu Thánh bổ sức cho con,
Nhưng con lại có thể quảng đại mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Lạy Chúa,
chỉ mình Chúa, Ngài mới thật sự là đường
Nhưng con lại có thể chỉ đường cho anh em con bước đi.
Nhưng con lại có thể chỉ đường cho anh em con bước đi.
Lạy Chúa,
chỉ mình Chúa, Ngài mới là ánh sáng,
Nhưng con lại có thể làm cho ánh mắt anh em con thêm sáng ngời long lanh.
Nhưng con lại có thể làm cho ánh mắt anh em con thêm sáng ngời long lanh.
Lạy Chúa,
chỉ mình Chúa,Ngài mới là sự sống vĩnh cửu,
Nhưng con lại có thể đem đến cho anh em con niềm vui sống.
Nhưng con lại có thể đem đến cho anh em con niềm vui sống.
(Phỏng
theo L’INDISPENSABLE PIÈRE)
THỨ HAI TUẦN 3 PHỤC SINH
Lời Chúa : Ga 6,22-29
"Hãy
ra công làm việc
không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn
đem lại phúc trường sinh.”
(Ga 6,27)
không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn
đem lại phúc trường sinh.”
(Ga 6,27)
Chúng ta
bắt đầu bài suy niệm về Bí tích Thánh Thể: Vì đã được ăn bánh no nê nên
dân chúng đi tìm Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, họ gặp Ngài ở bên kia biển hồ. Ngài
nói với họ: “Các ngươi tìm Tôi không phải vì các ngươi thấy các dấu lạ, nhưng
vì các ngươi đã được ăn no nê” (Ga 6,26).
Rồi
Ngài nói cho họ biết về một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy
ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến
cuộc sống đời đời” (Ga 6,26-27).
Qua những
lời đó, Chúa Giêsu nhắc nhở cho dân chúng ngày xưa và cũng như ngày nay: Cuộc sống
con người ngoài lương thực vật chất, còn một thứ lương thực khác, đó là thứ
lương thực làm cho người ăn có được sự sống tồn tại đến muôn đời.
Một điền
chủ muốn thưởng công xứng đáng cho nông dân đã chăm chỉ cầy sâu cuốc bẫm, chăm
sóc ruộng đất cho chủ trong suốt một thời gian dài. Vào một buổi sáng nọ, ông
chủ cho gọi người nông dân đến và nói:
- Nhờ anh
mà tôi được giàu có thêm. Hôm nay, tôi quyết định cho anh một phần thưởng. Anh
biết rõ ruộng đất của tôi rộng thẳng cánh cò bay. Vậy vào lúc mặt trời mọc sáng
ngày mai, tôi cho anh chạy trên đất của tôi nhanh chậm tùy ý. Anh phải tính thế
nào để đúng lúc mặt trời lặn, anh phải trở về điểm khởi hành. Vòng tròn thửa đất
có vết chân của anh đã chạy sẽ là ranh giới tài sản mà tôi cho anh.
Anh nông
dân hết sức mừng rỡ. Vì khỏe mạnh nên anh chạy nhanh như gió. Càng về chiều,
anh càng chạy nhanh hơn. Nhìn lại thửa đất mênh mông mà anh đã chạy vòng qua,
anh càng hăng hái và ráng chạy, chạy nhanh, thật nhanh. Lúc mặt trời vừa lặn
thì cũng là lúc anh vừa trở về lại điểm khởi hành. Thế nhưng, vừa về đến nơi
thì anh cảm thấy choáng váng trong người. Mặt tái mét, mắt hoa lên, rồi anh ngã
xuống đất và rồi tim anh ngừng đập. Anh đã tắt thở trước mặt mọi người! Thế là
hết! Lúc đó, anh chỉ còn cần có 3 tấc đất người ta gửi tấm thân anh vào đó.
Lời
của Chúa Giêsu: “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để
có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”. (Ga 6,27)
Một nhà
truyền giáo kia kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm,
có một người bản xứ vội vã chạy đến tìm gặp tôi. Anh la lớn: "Thưa Cha!
cách đây 25 cây số có một người đang hấp hối. Cha hãy đến mau!"
Vài phút
sau, tôi ra khỏi thành phố, hướng về phía Nam. Trong nhiều giờ, chúng tôi cuốc
bộ dưới ánh nắng chói chang và qua những con đường đầy bụi bặm. Những lời nói của
người dẫn đường làm cho tôi có cảm giác như có một cái gì đó bất thường sắp xảy
ra. Anh ta nói với tôi về một người bệnh, một người bệnh trong một ngôi chùa.
Cuối cùng, thì tôi cũng đã hiểu ra: Đó là một người Kitô hữu già làm nghề gác
chùa từ rất lâu! Ông ta giữ nhiệm vụ canh chùa, rung chuông đánh trống mỗi khi
có các buổi lễ. Bây giờ, ông ta sắp chết vì thế ông nhờ người đi tìm Linh mục.
Buổi chiều,
chúng tôi đến nơi, trong một góc chùa, trên một chiếc chiếu, tôi nhận thấy một
cụ già rất gầy và hầu như đang hấp hối. Ông nhìn tôi cười và nói một cách khó
nhọc:
- Thưa
Cha, cha đã đến. Cha đã không quản ngại đường sá xa xôi. Con cám ơn Cha.
-
Nhưng... tại sao cụ lại ở đây! Tôi được biết là cụ đã ở đây giữ chùa, phục vụ
các ngẫu thần và bỏ rơi Thiên Chúa duy nhất chân thật mà cụ đã tuyên xưng khi
chịu phép rửa!
- Thưa
Cha - Ông cụ rên rỉ - xin Cha hãy cúi xuống một tí để nghe con nói và hiểu giùm
con. Đúng là con giữ chùa, con rung chuông, đánh trống. Nhưng chỉ vì cái này
(ông phác một cử chỉ ăn uống), nhưng bên trong con nói: "Chúa ơi, xin đừng
giận con, Chúa biết rằng, chỉ vì cái ăn, nhưng cái này (ông đưa tay chỉ ngực)
luôn thuộc về Chúa!"
Sau lời
thú nhận này, đôi mắt ông rực sáng. Tôi quỳ xuống gần bên chỗ nằm đáng thương của
ông, nghe ông xưng tội và ban của ăn đàng cho ông. Ông ta tỏ vẻ sung sướng biết
là ngần nào. Tôi thấy là ông chẳng còn sống được bao lâu nữa - Những cơn đau
kinh khủng đang dày xé thân xác gầy mòn của ông -Tôi tìm cách an ủi, nhưng con
người đang hấp hối này nói với tôi bằng một giọng vui vẻ:
- Điều đó
không có gì quan trọng cả, thưa Cha, con muốn chịu đựng tất cả, vì chẳng bao
lâu nữa, con sẽ được vào Nước Trời, ở đó mọi sự đều rất tốt đẹp!
Vài ngày
sau, tôi nhận được tin cụ già đã qua đời một cách bình an trong ngôi chùa của cụ...
Vâng!
“Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực
trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).
Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016
THỨ BẢY TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 6,16-21
Nhưng
Người bảo các ông:
"Thầy đây mà, đừng sợ!"
(Ga 6,20)
"Thầy đây mà, đừng sợ!"
(Ga 6,20)
1. Một
chuyện nhỏ được xen vào đơn vị hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.
Chúa
Giêsu để các môn đệ thực hiện một cuộc hành trình trên biển một mình lúc trời tối.
Đang lúc họ chơi vơi ở giữa biển thì cuồng phong nổi lên và biển động mạnh. Các
môn đệ hoảng sợ. Và chính lúc đó, Ngài đến với họ. Gặp họ, Chúa nói ngay “Chính
Thầy đây, đừng sợ" (Ga 6,20). Khi nói thế, Chúa muốn dạy họ một lúc hai điều:
con người rất yếu ớt mỏng dòn, con người cần sự che chở của Chúa.
Chúa cho
câu chuyện này xảy ra ngay sau phép lạ hóa bánh nhiều nhằm dạy cho các môn đệ
biết rằng, Chúa Giêsu chẳng những có thể ban lương thực cho con người, mà còn
ban cả sức mạnh tinh thần và sự che chở an toàn cho con người nữa.
2. Trong
Thánh Kinh, câu “đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để chúng ta nhắc lại mỗi
ngày trong suốt một năm.
Nhà truyền
giáo Moody kể: Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết nói rằng, hễ
ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống được bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật
được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung suớng nghĩ rằng, mình sẽ sống đến tuổi
đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất
lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Chúa Giêsu Kitô, như
một người con của Chúa. (Góp nhặt).
Khi Đức
Giêsu bảo các môn đệ: “Chính Thầy đây, đừng sợ!" (Ga 6,20). Chúa muốn mọi
người hãy biết tin tưởng vào Chúa.
Một ghềnh
đá nằm trên một ngọn núi cao được gia đình chim phượng hoàng chọn làm nơi xây tổ
đẻ trứng và ấp con. Từ ghềnh đá này người ta có thể nhìn thấy bao quát cảnh vật
chung quanh.
Thấm
thoát thời gian trôi nhanh, chim phượng hoàng mẹ nhìn con và nói
- Đã đến
lúc các con phải tập bay.
- Bay như
thế nào? Ba chiếc mỏ non nớt cùng cất tiếng hỏi:
Chim mẹ
trả lời:
- Các con
phải đi ra mép ghềnh đá rồi buông mình rơi xuống và vỗ cánh để gió nâng các con
lên.
Ba chú chim
con ngơ ngác nhìn nhau với những ánh mắt đầy lo sợ. Tuy thế chúng cũng vâng lời
mẹ đi ra mép ghềnh đá nhìn xuống vực thẳm, nhưng rồi lại vội vàng quay trở về
chui vào tổ tìm sự an toàn.
Ngày hôm
sau, chim phượng hoàng mẹ cũng lặp lại lời nói hôm qua:
- Đã đến
lúc các con phải tập bay.
Một chú
chim con sợ hãi nói:
- Vực thẳm
sâu quá!
Con khác
tiếp lời:
- Chúng
con sẽ phải rơi xuống tan xác mất thôi.
Và con thứ
ba thú nhận:
- Chúng
con sợ quá, mẹ ơi!
Nhưng
chim phượng hoàng mẹ nói như ra lệnh:
- Hãy đi
ra bờ vực thẳm!
Thấy đàn
con không nhúc nhích, phượng hoàng mẹ nói giọng cương quyết hơn:
- Hãy đi
ra mép ghềnh đá, đừng sợ!
Theo lệnh
mẹ, ba chú chim con chậm rãi bỏ tổ tìm ra mép ghềnh đá. Chim mẹ nhẹ nhàng dùng
mỏ đẩy ba con đi nhanh hơn. Đến nơi, một con can đảm nhảy xuống vực thẳm và
tung cánh. Được gió nâng đỡ, nó vỗ những nhịp cánh đầu tiên và bay trong bầu trời
cao rộng.
* Chúa
Giêsu đã nói với các tông đồ thuở xưa: “Thầy đây đừng sợ”. Hôm nay Chúa cũng muốn
nói với chúng ta như thế.
Đây là một
cuộc đối thoại được trích trong tác phẩm "Về Miền Đất Hứa" của Léon
Uris trang 356-357, xuầt bản tại Sàigòn 1975 kể lại:
Năm 1884,
Josi Rabbinsky, 16 tuổi và em là Yakov 14 tuổi, có ý định đi bộ từ Nga về
Palestine. Họ trình bày kế hoạch cho vị Rabbin:
- Kế hoạch
của chúng con như sau: Chúng con sẽ đi thẳng xuống phía Nam, băng qua xứ
Caucase để sang Thổ Nhĩ Kỳ.
Vị Rabbin
giơ hai tay lên trời:
- Điên rồ!
Không thể thực hiện được! Các con quả thực nghĩ tới việc đi bộ ba ngàn cây số
giữa mùa đông, leo qua những ngọn núi cao năm ngàn thước, không một chút giấy tờ,
qua những vùng hoàn toàn chưa bao giờ biết, và với cảnh sát đuổi theo sau lưng
sao?
Yakov tiến
lên một bước, nhìn vị Rabbin bằng con mắt đầy cuồng nhiệt và cất tiếng đọc:
- Con đừng
sợ hãi gì cả vì Ta ở với con. Ta sẽ cho gieo mầm của con về phía Tây, về phía
Đông. Ta sẽ truyền cho miền Bắc giải phóng con, truyền cho Miền Nam không được
giữ con, để sau cùng Ta đưa các con dân của Ta ở tận các miền xa, ở tận cùng thế
giới, trở về”.
Bài giảng
đầu tiên khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô cũng được mở
đầu bằng hai từ “Đừng sợ”.
Vâng,
kính thưa anh chị em. Chúa của chúng ta đã chiến thắng tất cả rồi. Không còn một
lý do nào để chúng ta phải sợ nữa. Hãy can đảm sống và làm chứng cho Ngài.
Amen.
THỨ SÁU TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 6,1-15
Dân chúng
thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói:
"Hẳn ông này là vị ngôn sứ,
Đấng phải đến thế gian!" (Ga 6,14)
"Hẳn ông này là vị ngôn sứ,
Đấng phải đến thế gian!" (Ga 6,14)
1. Vâng!
Sau khi Chúa đã giúp chúng ta tìm lại được địa vị làm con Thiên Chúa qua bí
tích Rửa tội, bắt đầu từ hôm nay chúng ta được Chúa nói cho chúng ta về luơng
thực Ngài ban cho chúng ta. Tôi muốn nói đến Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội dựa
trên bài tường thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều để nói về vấn đề này.
Phép lạ
này được cả 4 quyển Tin Mừng ghi lại. Nhưng bài tường thuật của Gioan có nhiều
chi tiết đặc biệt hơn:
Trước hết,
Gioan xác định rõ nơi xảy ra phép lạ. Đó là phía Đông hồ Galilê, tức là vùng đất
của lương dân. Tại vùng đất này mà “dân chúng theo Người đông lắm”, chứng tỏ
lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.
Gioan đã
coi phép lạ này như một dấu chỉ giúp người ta hiểu về màu nhiệm Chúa Giêsu:
Ngài chính là Bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.
2. Dân
chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát: Đói khát
lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói
khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.
Vâng, chỉ
có Chúa mới có thể thỏa mãn được những khát vọng, nhất là những khát vọng sâu
xa và thầm kín nhất nơi con người, vì Chúa là chính sự sống mà con người hằng
mong đợi.
Tấm lòng
của Chúa Giêsu thật lớn lao, thật không có gì sánh kịp. Chúa ban phát và ban phát
không có giới hạn. Ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Tất cả được ăn no nê mà vẫn còn
dư.
“Đức
Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá
nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý". (Ga 6,11)
Đọc lịch
sử các thánh, tôi thấy thánh Gioan Don Bosco là một vị thánh có lòng sùng kính
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể một cách đặc biệt. Ngài đã rút ra được rất
nhiều bài học từ bí tích này. Có lần ngài đã kể câu chuyện này cho các thiếu
niên, con cái ngài yêu thương:
Một hôm,
Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Chúa.
Dọc đường,
Chúa bảo hai ông mỗi người hãy mang theo cho Chúa một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một
lúc, rồi lặng lẽ nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự
nhiên, đã vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển, còn
Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:
- Sao anh
nhọc công vác một tảng đá lớn như thế?
Chúa
Giêsu nghe tất cả nhưng Ngài vẫn giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Chúa muốn
dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi
đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì mà ăn.
Phêrô tiu
nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành một mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu
cơn đói của ông.
Rồi một lần
khác, Chúa Giêsu cũng lại gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc
đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô
liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng
đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi Chúa Giêsu sẽ nói như lần trước để thưởng ông.
Thế nhưng, lần này Chúa Giêsu chỉ nói với họ:
- Nào
chúng ta hãy đặt những viên đá chúng ta vừa mang theo xuống đất, ngồi lên mà
nghỉ một chút. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!
Phêrô thấy
xấu hổ, ông trách Chúa:
- Đúng là
Thầy đã chơi khăm con!
Nhưng
Chúa Giêsu bảo ông:
- Lòng quảng
đại đích thực không có sự tính toán.
Chúa
Giêsu đã làm phép lạ từ “5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé dâng cho Ngài”.
Phải nói rằng, em bé trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho mọi người về
lòng quảng đại. Đúng là em đã không tính toán một chút nào khi em dâng cho Chúa
5 chiếc bánh và 2 con cá. Em đã dâng cho Chúa tất cả, chẳng giữ lại cho mình
chút nào. Và Chúa Giêsu làm phép lạ biến bánh và cá ra nhiều từ 5 chiếc bánh và
2 con cá đó. Sau đó, mọi người đã được ăn no nê và thu lại được cả 12 thúng
bánh vụn!
Công việc
của Chúa quả là hết sức đặc biệt và ở đây chúng ta phải nhận rằng, việc Chúa
làm còn quảng đại hơn nhiều, không phải chỉ với phép lạ hôm nay mà còn trong suốt
lịch sử của loài người.
Lòng quảng
đại đích thực không có sự tính toán.
Lạy Chúa,
xin cho chúng con luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban.
Với Chúa,
xin cho chúng con biết dâng trọn tấm lòng vâng phục, phó thác tri ân.
Với mọi
người, xin cho chúng con luôn biết sống quảng đại, hy sinh, cảm thông, và tha
thứ để chúng con hiểu được rằng, biết quảng đại trao ban như Chúa là một niềm hạnh
phúc cho chúng con.
THỨ NĂM TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,31-36
"Ai
nhận lời chứng của Người,
thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật."
(Ga 3,33)
thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật."
(Ga 3,33)
1. Đây
là phần cuối của bài giáo lý về việc sinh lại: Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho
chính con người: mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự
lựa chọn của mình: “Ai tin vào Người Con thì có sự sống đời đời, còn ai không
tin vào Người Con thì không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa sẽ đè nặng trên người ấy”. (Ga 3,36)
Như vậy,
từ đầu tuần đến hôm nay, Chúa Giêsu đã hết lời giải thích về sự cần thiết phải
sinh lại, sinh lại làm sao, ích lợi của việc sinh lại thế nào và tai hại của việc
không sinh lại ra sao… Hôm nay, Chúa đòi mỗi người phải quyết định và chịu
trách nhiệm về sự lựa chọn của mình: Chúng ta có sẵn sàng sinh lại thành con
người mới hay không?
Một cha xứ
kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật nghiện thuốc lá.
Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khoẻ. Thế
nhưng, ông ta không chỉ nghe để mà nghe mà hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:
- Kinh
Thánh không hề cấm hút thuốc.
Thấy vậy
cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.
Nhưng thật
là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá. Tò mò, ngài hỏi tại
sao thì ông trả lời.
- Thưa
cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước
vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn
có gói thuốc lá con vừa mới mua.
Chúa
Giêsu hỏi con:
+ Con
đang làm gì đó?
- Dạ con
ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.
+ Sao con
không mời ta hút thuốc?
Con vội
vã trả lời:
- Dạ đâu
được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!
Chúa ôn tồn
bảo con:
- Ta là mẫu
người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và
hành động giống Ta chứ. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại sao con lại
hút?
- Thưa
Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng, Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ
con. Bởi đó con đã quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.
Đó là một
cuộc tái sinh, sinh lại rất đẹp.
2. Maurice
Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành
người. Con người có bổn phận phải thành người. Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại”
lần sinh thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh
làm người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta
không thể trở thành một con người trọn vẹn”. (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”).
Một bà
già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một
nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó,
thì khỏi phải chết và được sống đời đời”.
Bà đáp:
- Thật là
tuyệt vời, Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm
không học biết Ngài.
Cuộc trở
lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu:
“Sinh 1825. Sinh lại 1925” (Góp nhặt).
3. “Ai
tin vào Người Con thì được sống đời đời" (Ga 3,36). Muốn sống đời đời phải
biết gìn giữ ơn tái sinh.
Tại những
khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu
nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết,
trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào
đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng
không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.
Những người
thợ săn Âu châu đã biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt
chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường
lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội
chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn
núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiển và ngay cả sự chết, hơn là để thân
thể hóa ra hoen ố…
Đối với
giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: Chúng sẵn
sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.
Cuộc sống
của người Kitô hữu chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô Phục
Sinh, mỗi người Kitô hữu chúng ta đã được khoác lên mình một chiếc áo trắng
tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta
chịu phép rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…
Lạy Chúa,
Chúa đã thương cho chúng con được trở nên con của Chúa. Xin cám tạ ơn Ngài mãi
mãi. Amen.
THỨ TƯ TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,16-21
"Ai
tin vào Con của Người, thì không bị lên án;
nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi,
vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa."
(Ga 3,18)
nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi,
vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa."
(Ga 3,18)
1. Chúng
ta tiếp tục bài giáo lý về việc tái sinh: hôm nay nói về hậu quả của
việc sinh lại.
Chịu sinh
lại thì được cứu độ; không chịu sinh lại thì phải hư mất tức là “bị luận phạt”.
Thực ra,
khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa không hề muốn “Luận phạt” thế gian
“để cho hư mất, mà chỉ muốn cứu thế gian.”
Nhưng thế
gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con tức là chịu “sinh lại bởi
đức tin” thì được cứu; kẻ không tin tức không chịu sinh lại thì “bị luận phạt”
(hư mất).
Dĩ nhiên,
được cứu thì tốt hơn là bị hư mất. Sống trong ánh sáng thì hạnh phúc hơn sống
trong tăm tối. Thế nhưng, cũng giống như một người đang bị chìm muốn được cứu sống
thì tối thiểu phải đưa tay cho người trên bờ kéo mình lên, người muốn sáng thì
phải rời bỏ tối tăm để bước tới nguồn sáng.
Tại
Florence thuộc nước Italia, có một ngôi đại giáo đường, được kiến trúc rất đặc
biệt. Ngôi đại giáo đường này có một vòm cầu lớn. Trên vòm cầu này có một lỗ nhỏ
được ghép kính.
Kiến trúc
sư vẽ kiểu ngôi đại giáo đường này, đã khéo léo tính toán thế nào, để cứ đến
ngày 21 tháng 6 hàng năm, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu vào lỗ nhỏ kia, rồi dọi xuống
một miếng bạc, được ghép ở dưới nền giáo đường.
Người ta
chỉ cần nhìn vào ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời, qua lỗ nhỏ trên vòm cầu kia,
rồi dọi xuống nền giáo đường là biết được độ nghiêng của ngôi giáo đường để sửa
chữa, vì ngôi đại giáo đường này được xây trên một khu vực mà trước đây là vùng
xình lầy.
Trong
ngày thứ bảy tuần thánh, Chúa Giêsu được Giáo Hội tuyên xưng là ánh sáng thế
gian. Ánh sáng Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chiếu vào thế gian để soi đường chỉ
lối cho con người.
Thế
nhưng, theo như lời của Thánh Gioan, thì thế gian đã không chịu tiếp nhận ánh
sáng đó, mà trái lại còn xua đuổi. Lý do nào khiến thế gian ghét ánh sáng thì
Thánh Gioan đã cho biết trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Vì họ sợ những việc làm của
mình bị khiển trách”. Tại sao lại sợ? Thưa, vì việc làm ấy xấu xa. Giống như
ánh sáng mặt trời dọi xuống xuyên qua lỗ hổng, chiếu xuống miếng bạc được bố
trí trên nền nhà thờ, làm cho người ta nhận ra được độ nghiêng của ngôi nhà thờ
như câu chuyện kể trên, thì ánh sáng Giêsu chiếu dọi vào thế gian cũng làm cho
con người thấy được những sai quấy của mình như thế.
Ngạn ngữ
Trung Hoa có câu: “Nhật Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời mặt
trăng tuy có sáng nhưng khó mà chiếu vào chiếc chậu úp). Ánh sáng của mặt trời
cũng như ánh sáng Giêsu, tuy sáng và có đó, nhưng nếu người ta không chịu tiếp
nhận thì cũng vô ích, nó cũng giống như ánh sáng chiếu vào một chiếc chậu úp
thôi.
2. Điều
còn lại ở đây là chúng ta có đủ nhạy cảm để nhận ra ánh sáng đó hay không.
Một nhà
thám hiểm Tây Phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã cạn
khô. Ông lê từng bước chân mệt mỏi trên cát. Thình lình ông nghe tiếng suối róc
rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ
khoa học của người Phương Tây, ông tự nghĩ: "Đây chỉ là một ảo ảnh, trong
thực tế, giữa chốn sa mạc khô cằn như thế này làm gì có nước và cây cối".
Nghĩ như vậy, ông tuyệt vọng lê bước. Không bao lâu sau đó, hai người du mục
tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên:
- Chỉ còn
hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng
thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?
Nhưng người
bạn kia lắc đầu giải thích:
- Ông ta
là một người Phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng
con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Có nhiều
người trong chúng ta cũng như vậy.
Hẳn anh
chị em còn nhớ câu chuyện người mù ở trong Tin Mừng. Đứng trước một sự thật rõ
ràng như ban ngày vậy mà những người Pharisêu vẫn tìm cách bẻ cong sự thật.
Chúa Giêsu đã phải rất buồn về thái độ ấy nên Ngài đã nói: "Tôi đến thế
gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy
lại nên đui mù!" (Ga 9,39).
Những người
Pharisêu đang ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả
chúng tôi cũng đui mù hay sao?" (Ga 9,40) Đức Giêsu bảo họ: "Nếu các
ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng:
"Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!" (Ga 9,41).
Chúng ta
hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn biết yêu sự sáng và hãy cam đảm bước đi
trong ánh sáng để cho ánh sáng soi đường cho ta. Đó là một cách để được sinh lại:
không còn là con của tối tăm nữa, mà từ nay sẽ là con của ánh sáng.
THỨ BA TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,7b-15
"Như
ông Môisen đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,
để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." (Ga 3,14-15)
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,
để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." (Ga 3,14-15)
1. Hôm
qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi phải tái sinh. Hôm nay, Chúa giải thích
tái sinh hay sinh lại là sinh như thế nào.
Khi
Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?" (Ga 3,9).
Chúa
Giêsu trả lời là nhờ tác động của Thánh Linh “Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ
sinh bởi Thánh Linh cũng vậy” và nhờ tin vào Chúa Giêsu “không ai lên trời được
ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời" (Ga 3,13).
“Tái sinh
là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc
vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý
lẽ và phương tiện riêng của mình”. (Mỗi ngày một tin vui)
Tái sinh
chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của
mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể
có việc tái sinh.
Có hai hạt
giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.
Hạt giống
thứ nhất tâm sự: "Tôi muốn lớn lên. Tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới
lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất...Tôi
muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu hiện báo hiệu một mùa xuân
đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời
chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi".
Thế là hạt
giống đó bắt đầu triển nở.
Hạt giống
thứ hai nói: "Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp
phải điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi
kia, sợ rằng, mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên
sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch
nào đó nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật
an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.
Và hạt giống
đó tiếp tục chờ.
Một chú
gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách
ngon lành và nuốt ngay vào bụng. Thế là hết đời một hạt giống.
David L.
Weatherford đã nói rất hay: "Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tìm
cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát". (Jack Canfield and Mark Victor
Hansen, chicken)
2. Phải
nói là con đường làm cho mình trở nên một con người mới là một con đường rất
khó đi, nhưng chỉ khó với những ai thiếu niềm tin và thiếu ý chí, còn đối với
những người có đức tin mạnh và một chí khí can cường, thì nhất định sẽ thành
công.
Một hôm
bà chị của thánh Thoma Aquinô hỏi một người:
- Phải
làm gì để hưởng hạnh phúc đời đời?
Người ấy
trả lời:
- Phải muốn
được như thế.
Vâng!
Đúng như vậy, trước hết là chính mình phải muốn, muốn một cách mạnh mẽ.
Khi thánh
Phanxicô đệ Salê nghe tin thánh Phanxicô Xavie được phong thánh. Ngài nói:
- Đó là
Phanxicô thứ ba được phong thánh. Tôi sẽ phải là thánh Phanxicô thứ bốn.
Và người
đã giữ lời hứa và ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ 4 của Hội Thánh.
Phải muốn
và đồng thời cũng phải dám hy sinh. Chính Chúa Giêsu cũng đã cho biết con đường
theo Ngài là con đường hẹp!
Ông
Francois Piza người hùng đã chiến thắng đất Pérou trong một cuộc thám hiểm.
Trong khi đi thám hiểm, có lúc phái đoàn của ông đã bị đặt vào một hoàn cảnh vô
cùng khó khăn. Vì không chịu được những gian nan trước mắt, đám thủy thủ đã nổi
dậy đòi ông phải quay trở về, nhưng Piza trả lời:
- Phía bắc
con đường chúng ta đang đi là một cuộc sống dễ dàng và không nguy hiểm. Đi theo
hướng đó chúng ta sẽ thất bại và khổ sở. Trái lại, nếu hướng về phía nam, chúng
ta sẽ phải cắn răng chịu đựng những khó khăn, đương đầu với những thách đố, cam
chịu những thiếu thốn, nhưng thành công, hạnh phúc, giàu sang, vinh hiển sẽ tiếp
đón chúng ta. Vậy, các anh hãy tự chọn con đường đi.
Gần hết
đám thủy thủ đã chọn con đường phía bắc quay trở về. Chỉ có 12 người biết theo
con đường Piza đã vạch. Và 13 người can đảm ấy, sau những ngày gian nan khốn
khó, cay đắng trăm bề, tất nhiên là phải chịu nhiều thiếu thốn, nhưng họ vẫn
không chịu lùi bước trước khó khăn, và cuối cùng họ đã thành công.
Trước khi
phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã phải tiến hành hơn 2.000 cuộc thử
nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần
như vậy. Ông nói: "Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần.
Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!"
Con đường
vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy, thử hỏi con đường vinh quang Nước
Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào.
THỨ HAI TUẦN 2 PHỤC SINH
Ga 3,1-8.
Đức
Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật ông:
không ai có thể vào Nước Thiên Chúa,
nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí." (Ga 3,5)
không ai có thể vào Nước Thiên Chúa,
nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí." (Ga 3,5)
1. Phụng
vụ hôm nay dùng cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô để nói về Bí tích Rửa
Tội (Trong bài Tin Mừng hôm nay được gọi là Bí tích Tái sinh).
Chúa xác
định một cách hết sức rõ rệt: cần thiết phải sinh lại.
“Thật,
tôi bảo cho các ông biết: Nếu ai không sinh lại bởi ơn trên thì chẳng thấy được
Nước Thiên Chúa" (Ga 3,3). Việc “Sinh lại” ở đây không được hiểu theo
nghĩa thể lý: “Một người đã già làm sao có thể sinh lại? Không lẽ người ấy lại
vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?" (Ga 3,4) mà phải hiểu theo nghĩa
thiêng liêng: “sự gì sinh bởi huyết nhục thì là huyết nhục, và sự gì sinh bởi
Thần Linh thì là Thần Linh" (Ga 3,6).
Như vậy,
người Kitô giáo có hai lần sinh ra. Một sinh ra làm con người và một sinh lại để
trở thành con Thiên Chúa.
Để được
thành con người chúng ta đã phải cố gắng. Maurice Zundel đã viết: “Chúng ta
không sinh ra đã thành con người (…) Con người có bổn phận phải thành người.”
Sách Tin
Mừng nói “phải sinh lại”, sinh lần thứ hai để trở thành con Thiên Chúa. Làm người
đã là khó; làm con Thiên Chúa chắc là phải khó hơn.
Để trở
thành con Thiên Chúa, con người phải được sinh ra bởi nước và Thần Khí.
Đây là một
cuộc tạo dựng mới. Với quyền năng của Thiên Chúa, Thần Khí đã tạo dựng nên con
người mới: con người trở thành con Thiên Chúa.
2. Bí
tích Rửa tội cho tôi sinh lại, để tôi thành con của Chúa. Nhưng “làm con Chúa”
chỉ mới như một hạt giống, tôi cần phải vun trồng cho nó phát triển thành cây.
Với thời gian, nhiều khi tôi bị người “con của thế gian” chèn ép khiến hình ảnh
của Thiên Chúa nơi tôi trở nên èo uột, méo mó. Bởi vậy, tôi cần phải sinh đi
sinh lại mãi cho đến khi tôi được trở nên đồng hình dồng dạng với Chúa.
Bên Mỹ có
một cuốn phim với tựa đề là: “Người Mưa” được tung ra thị trường phim ảnh Hoa Kỳ
mấy năm trước đây. Mục đích của cuốn phim này là muốn người ta thấy con người
có thể trở nên tốt như thế nào.
Một gia
đình kia có ba người: người cha và hai người con. Hai người con thì một người
tên là Charley và còn người kia tên là Raymond. Tuy là hai anh em nhưng họ
không biết nhau. Người anh tên là Charley là một thương gia giàu có, còn
Raymond, người em thì bị tàn tật từ nhỏ. Charley không hề hay biết mình có người
em tên là Raymond và hơn nữa lại là một người tàn tật mãi cho đến ngày cha của
hai người qua đời. Cái chết của người cha đã đánh dấu một khúc rẽ mới trong đời
sống của hai anh em. Trước khi nhắm mắt lìa đời, trong tờ di chúc, người cha đã
ký lại cho Raymond, người con tàn tật một số tiền khổng lồ là 3 triệu mỹ kim,
còn Charley thì được thừa kế một ngôi biệt thự rộng lớn. Charley rất ngạc nhiên
trước lời trăn trối của người cha, và kể từ ngày đó anh tìm đủ mọi mưu kế, học
mọi thủ đoạn để chiếm đoạt số tiền của em. Anh lý luận: dầu sao đi nữa, em mình
là một người tàn phế như thế làm sao có thể tiêu xài hết một số tiền lớn như vậy.
Charley nghĩ như thế là để bào chữa cho lòng tham của mình chứ thực sự thì
Charley đâu có quan tâm gì đến em mình.
Cuốn phim
được tiếp diễn với nhiều thủ đoạn, những mưu mô khôn khéo để chiếm cho bằng được
số tiền đó. Nhưng trớ trêu thay, chính những bận tâm ấy đã làm cho Charley luôn
nghĩ tới người em hơn là bản thân mình. Anh nhận ra rằng, đây là lần đầu tiên
anh biết quan tâm lo lắng cho người khác. Và anh cũng bắt đầu ý thức thêm rằng,
anh đang quên mình đi để nghĩ đến người em, anh đang chết dần cho bản thân mình
và chỉ nghĩ đến người em đáng thương ấy. Và thật không ngờ khi anh làm như thế
thì anh bắt đầu cảm thấy tình yêu của anh đối với người em được thay đổi. Lúc đầu
thì toàn là những tính toán ích kỷ nhưng dần dần được thay thế bằng lòng yêu
thương thật sự đối với đứa em tàn tật của anh. Bây giờ thì anh không còn nghĩ đến
việc chiếm hữu số tiền do người cha di chúc để lại cho em mình nữa, mà anh chỉ
nghĩ đến việc lo lắng chăm sóc cho đứa em tật nguyền của mình. Anh đã trở thành
một con người mới, một con người trọn vẹn hơn vì anh đã biết sống với người em
của anh như là người em thực sự, con cùng một cha chứ không phải là đối thủ để
anh trục lợi và khai thác.
Vâng,
phép Rửa tội cũng làm một việc tương tự như thế, biến chúng ta sẽ trở thành người
con của Thiên Chúa và khi đã được trở thành những người con của Thiên Chúa,
chúng ta có bổn phận phải sống với nhau như anh em trong cùng một gia đình của
Thiên Chúa Cha trên trời.
Lạy Chúa,
xin biến đổi con
Để con trở
thành một tạo vật mới theo hình ảnh Chúa. Amen.
TRUYỀN TIN 2016
Anh chị
em thân mến
Hôm nay
chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính một trong những biến cố quan
trong nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Biến cố sứ thần của Thiên Chúa truyền tin
cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Nói về Đức
Mẹ như lời thánh Bernađô thì "chẳng bao giờ cho đủ". Mỗi lần nói về
vai trò của Đức Mẹ trong công trình cứu chuộc của Chúa thì chúng ta thường hay
nghĩ đến cách thức Chúa thực hiện những việc lạ lùng nới con
người của Đức Mẹ hơn là nghĩ đến những yếu tố đặc biệt khiến Đức Mẹ được Thiên
Chúa tuyển chọn. Thậm chí chúng ta còn thấy nhiều nhà tu đức còn cho là Thiên
Chúa luôn có quyền làm theo ý muốn của mình. Họ cho rằng việc Thiên Chúa chọn một
người phụ nữ quê mùa, nghèo khó để làm Mẹ Thiên Chúa là cốt ý để làm bẽ mặt những
kẻ quyền thế, giầu có sang trọng ở trong thế gian.
Tôi không
phủ nhận ý kiến đó. Thế nhưng đối với tôi nếu chỉ nghĩ về Thiên Chúa như thế
thì chưa đủ. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng hành động khác thường. Có những
lúc Ngài cũng hành động theo những qui luật bình thường. Nói như thế là tôi muốn
nói tới những lý do khiến Chúa đã đặc biệt để ý đến Đức Mẹ và tuyển chọn Ngài
vào một công tác rất quan trọng trong chương trình cứu độ của Người.
Thế thì Đức
Mẹ đã có những yếu tố nào để Thiên Chúa làm như thế?. Tôi thấy nơi Đức Mẹ có
hai nhân đức rất quan trọng này:
Trước hết
đó là lòng kính sợ Thiên Chúa
Thứ đến
là sự khiêm nhường.
a - Lòng
kính sợ Thiên Chúa.
Sách khôn
ngoan nói : “Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan"
Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng
đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.
+ Trước hết
vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Người.
Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay. Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của
sứ thần Grabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.
+ Thứ đến
là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Trong việc
đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập.
Trong việc
đưa Chúa Giêsu trở về.
Nhất là
theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha.
b - Đức
tính đặc biết thứ hai của Đức Mẹ đó là lòng khiêm nhường.
Các nhà
tu đức học đều coi "Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức". Sự
khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:
- Đức Mẹ
đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa
trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên
Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc
"quân vương" làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng
mình là một tôi tớ không hơn không kém……
- Đức Mẹ
nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
"Người
đã đoái thương nhìn tới phận nữ tì hèn mọn"
" Đấng
toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả"
Vâng tất
cả là bởi Thiên Chúa .
"Thiên
Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường.
Thiên
Chúa đã ban đầy dư cho nhũng kẻ nghèo, còn người giầu có thì Người đuổi về tay
không.
Phải
có một lòng khiêm nhương thật thẩm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật
đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Evà thuở xưa có
được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ
vườn điạ đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên
Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.
Trong thi
tập: “Người Làm Vườn”, thi hào Tagore của Ấn Độ đã ca ngợi người đàn bà như sau:
Hỡi người
đàn bà! Người không chỉ là tuyệt tác của Thượng Đế. Người còn là công trình của
con người. Chính con người vẫn mãi mãi tiếp tục tô điểm cho người bằng tâm tình
của họ.
Các thi
sĩ dệt cho người một mạng lưới của những vần thơ óng ả.
Các hoạ sĩ
mặc cho người một chiếc áo choàng bất tử.
Biển khơi
dâng hiến cho người ngọc ngà châu báu.
Người thợ
mỏ mang vàng đến cho người.
Người làm
vườn ôm ấp vỗ về người bằng muôn hoa cỏ đồng nội. Khát vọng của lòng người đã
trải dài vinh quang của họ trên tuổi xuân của người. Hỡi người đàn bà! Người một
nữa là đàn bà một nữa là mộng mơ.
Anh chị
em thân mến.
Những vần
thơ trên đây đáng được dành riêng để ca tụng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ
chúng ta. Mẹ Maria tuyệt mỹ, bởi vì Mẹ giống Chúa Con. Mẹ giống Chúa Con là bởi
vì cả cuộc sống lúc nào Mẹ cũng tuân theo thánh ý Chúa. Trước khi được liên kết
với Chúa Giê-su bằng máu mủ ruột thịt, Mẹ đã được liên kết với Ngài bằng hai chữ “xin
vâng”.
Lạy Mẹ,
chúng con thật hạnh phúc vì được gọi Mẹ bằng chính âm thanh mà chính Chúa Giêsu
đã từng gọi trong suốt cuộc đời của Ngài. Mẹ được Chúa Giê-su gọi bằng mẹ không
những vì đã sinh ra Chúa mà còn bởi vì Mẹ đã sống vâng phục như Thiên Chúa như
chính Con của Mẹ.
Xin mẹ
hãy phù giúp chúng con biết nhìn ngắm Mẹ và nhờ đó mỗi ngày một trở nên giống
Con Mẹ hơn. Amen.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)