Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016
THỨ BẢY BÁT NHẬT PHỤC SINH
Mc 16,9-15
Người
nói với các ông:
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”
(Mc 16,15)
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”
(Mc 16,15)
1. Bài
Tin Mừng chúng ta vừa nghe là phần cuối của Tin Mừng Marcô. Đoạn này có lẽ
không phải do Marcô viết mà do một người nào đó viết thêm vào. Đây là một bản
tóm lược 3 cuộc hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Ngài từ cõi chết sống lại:
Chúa hiện
ra cho Maria Mađalêna.
Chúa hiện
ra cho hai môn đệ đi đàng Emmau.
Và Chúa
hiện ra cho mười một tông đồ.
Đoạn Tin
Mừng này nhấn mạnh:
- Thái độ
không tin của các tông đồ: Không tin lời của Maria Mađalêna, cũng không tin lời
của hai môn đệ Emmau.
- Chúa
Giêsu khiển trách thái độ không tin ấy.
- Sau khi
làm cho các ông tin, Chúa Giêsu sai các ông “đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng
cho muôn dân” (Mc 16,15).
2. Các
môn đệ lúc đầu đã không tin mặc dù đã nghe các phụ nữ kể lại việc Chúa Giêsu hiện
ra. Các ông cũng vẫn không chịu tin khi nghe thêm hai môn đệ thuật lại cuộc gặp
gỡ của họ với Đấng Phục Sinh. Phải đợi tới lúc Chúa đến thì các ông ấy mới tin.
Xét như vậy thì chúng ta thấy đức tin không do suy luận, cũng không do có bằng
chứng người ta kể lại, nhưng đức tin là việc Chúa làm, do Chúa ban.
Sau khi
khiển trách các môn đệ về thái độ cứng lòng tin của họ, Chúa Giêsu đã củng cố lại
lòng tin đó, rồi Ngài mới sai các ông đi rao giảng. Rao giảng là chia sẻ niềm
tin của mình cho người chưa tin hay còn yếu đức tin. Vì thế, phải tin rồi mới
đi rao giảng. Các môn đệ đã có đức tin rồi, nên Chúa tin tưởng trao phó trách
nhiệm loan báo Tin Mừng của Chúa để họ loan báo lại cho những người khác.
Có một
câu chuyện ngụ ngôn rất hay về vấn đề này. Chuyện kể rằng, sau khi chịu nạn chịu
chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã Phục Sinh trở về Thiên Đàng trong uy nghi hiển
vinh. Dầu đã được vinh quang nhưng tay chân Ngài vẫn còn mang thương tích. Các
thiên sứ hân hoan đón chào Chúa. Quang cảnh đang nhộn nhịp vui tươi thì bỗng có
một thiên sứ đặt vấn đề:
- Chắc là
Chúa đã phải chịu thống khổ vô cùng vì loài người dưới đó?
Chúa
Giêsu đáp:
- Đúng vậy!
Thiên sứ
hỏi tiếp:
- Có phải
tất cả mọi người đều đã biết những gì Chúa làm cho họ không?
Chúa
Giêsu trả lời:
- Chưa,
chỉ mới có một số ít người biết mà thôi.
Thiên sứ
hỏi tiếp:
- Thế thì
Chúa làm gì để giúp cho mọi người được biết?
Chúa
Giêsu đáp:
- Ta đã
trao Phêrô, Giacôbê, Gioan và các đồ đệ của ta trách nhiệm đi nói với những người
khác, rồi những người khác lại nói cho những người khác nữa, rồi cho những người
này lại nói cho những người kia, cho đến lúc những người ở nơi xa xôi nhất trên
địa cầu cũng đều được nghe.
Thiên sứ
nhìn Chúa với vẻ nghi ngờ. Vị này đã quá hiểu rõ lòng dạ con người như thế nào,
nên nói tiếp:
- Vâng,
nhưng nếu như Phêrô, Giacôbê, Gioan và các môn đệ của Chúa quên đi thì sao? Hoặc
nếu họ mệt mỏi không còn tha thiết gì đến việc loan báo nữa thì sao? Hay như những
người ở thế kỷ 20 này không chịu thực hiện trọng trách việc thuật lại câu chuyện
tình yêu của Chúa cho những người khác nữa thì sao? Liệu Ngài có lập một chương
trình nào khác không?
Chúa
Giêsu trả lời:
- Không!
Ta không sắp đặt một chương trình nào khác. Ta đặt tin tưởng nơi họ.
Chúa vẫn
tin tưởng nơi những ai tin ở Chúa.
3. Chúng
ta cũng phải làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người. Việc này phải được coi là
một bổn phận khi chúng ta được Chúa thương nhận chúng ta làm con của Chúa qua
Bí Rửa Tội.
Nhà văn
hào Tolstoi của Nga đã ghi lại trong một câu chuyện ngắn một cuộc thoại của ba
người khách bộ hành như sau:
Mệt mỏi
vì đường xa, ba người bộ hành đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối. Bên cạnh
dòng suối trong mát, mỗi người cảm thấy sảng khoái và hứng khởi nên họ nói lên
cảm tưởng của mình về lợi ích của nó.
Người thứ
nhất lên tiếng: "Còn gì sung sướng bằng gặp được một dòng suối mát bên vệ
đường! Nước suối trong vắt không những làm cho chúng ta được tươi mát, mà còn mời
gọi chúng ta sống thành thật với nhau".
Người bộ
hành thứ hai góp ý: "Dòng suối chảy như không ngừng muốn nói với tôi rằng:
“Hỡi loài người, hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để làm cho thế giới được
tốt đẹp hơn".
Sau một
phút trầm ngâm, người bộ hành thứ ba mới thốt lên: "Những gì các bạn vừa
phát biểu đều đúng cả. Nhưng còn có một điều quan trọng hơn nữa tôi muốn chia sẻ
với các bạn. Các bạn hãy nhìn kìa, dòng suối này chảy không ngừng. Nó ban phát
không ngừng, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi một sự đáp trả
nào... mỗi người chúng ta hãy sống cao thượng như thế".
Lạy Chúa
Giêsu, Chúa đã sống lại, xin phục sinh tâm hồn con để chúng con đem niềm vui Phục
Sinh đến cho mọi người. (Epphata)
THỨ SÁU BÁT NHẬT PHỤC SINH
Ga 21,1-14
"Đức
Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông;
rồi cá, Người cũng làm như vậy.” (Ga 21,13)
rồi cá, Người cũng làm như vậy.” (Ga 21,13)
Bài Tin Mừng
hôm nay là phần cuối của Tin Mừng Gioan. Gioan viết để tường thuật về việc Chúa
hiện ra với các tông đồ trên bờ biển hồ Tibêria. Nhờ mẻ cá lạ mà các tông đồ nhận
ra Chúa. Người đầu tiên nhận ra Chúa là Gioan, và kế đến là các tông đồ khác.
Cuối cùng, là một bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò đã nhận ra nhau.
1. Có
một chi tiết nhỏ nhưng khá thú vị nếu chúng ta để ý: Đó là khi hiện ra với các
môn đệ sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu luôn hiện ra với các ngài trong những
khung cảnh của cuộc sống đời thường. Chắc là Chúa phải có một dụng ý khi làm
như thế. Thí dụ trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy Chúa có hẹn với các môn đệ của
Chúa là Ngài sẽ gặp họ ở Galilê, nhưng Chúa không xác định rõ nơi chốn. Rõ ràng
trước đó các môn đệ đã tụ tập nhau lại và họ chờ đợi Chúa. Thế nhưng, Chúa đã
không đến với họ lúc họ chờ đợi mà lại đến với họ lúc họ cùng nhau đi làm việc.
Rất nhiều
người trong chúng ta tưởng rằng, muốn được gặp Chúa thì chúng ta phải đi tới
nơi nọ nơi kia, phải đến Đền thờ nọ Đền thờ kia. Việc Chúa hiện ra với các môn
đệ trong bài Tin Mừng hôm nay có lẽ phải là cơ hội cho chúng ta suy nghĩ lại.
Chúng ta có thể gặp được Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Nhà văn
Julia A. Manhan kể lại rằng: Ngày nọ, có một cậu bé muốn gặp Chúa. Cậu nghe nói
rằng, phải qua một cuộc hành trình dài mới đến được nơi Chúa ở. Vì thế, cậu bé
chuẩn bị những chiếc bánh ngọt và một hộp 6 lon nước cho vào cái túi nhỏ rồi
lên đường.
Khi cậu
đi được vào khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà cụ ngồi trong công viên mắt
đăm đăm nhìn những con chim bồ câu. Cậu ngồi xuống cạnh bà và mở túi ra. Chưa kịp
đưa nước lên uống thì cậu thấy bà lão có vẻ đói bụng. Cậu lấy chiếc bánh mời bà
lão. Bà nhận chiếc bánh với đầy vẻ biết ơn và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà
đẹp đến nỗi cậu bé muốn được nhìn lại lần nữa. Thế là cậu đưa thêm cho bà lon
nước. Bà lại mỉm cười với cậu. Cậu bé rất thích thú.
Hai bà
cháu ngồi với nhau ở đó suốt cả buổi chiều, ăn uống và mỉm cười, nhưng không ai
nói lời nào.
Trời tối,
đứng lên chuẩn bị ra về, nhưng vừa đi được một bước, cậu quay lại, chạy về phía
bà lão và ôm bà. Bà đã tặng lại cậu bé nụ cười đẹp chưa từng thấy.
Một lát
sau cậu về đến nhà. Khi cậu bé vừa mở cửa, mẹ cậu đã sửng sốt khi nhìn thấy niềm
vui rạng rỡ trên con mình.
Mẹ cậu hỏi:
- Hôm nay
có chuyện gì mà con hạnh phúc thế?
Cậu trả lời:
- Con đã
ăn bữa trưa với Chúa!
Bà chưa kịp
nói gì thì cậu bé thêm:
- Mẹ biết
không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp mà con chưa từng thấy!
Trong khi
đó, bà lão trở về nhà cũng đem theo một niềm hạnh phúc. Con trai bà cụ rất ngạc
nhiên khi thấy vẻ bình an thanh thản trên khuôn mặt mẹ, anh hỏi:
- Mẹ ơi,
hôm nay con có điều gì làm mẹ hạnh phúc thế?
Bà lão
đáp:
- Mẹ ăn
bánh trong công viên với Chúa!
Trước khi
cậu con trai kịp nói thì bà thêm:
- Con biết
không, Chúa trẻ hơn mẹ tưởng nhiều!
2. Con
người ai cũng mong muốn được hạnh phúc. Nhưng nhiều khi hạnh phúc chỉ như một
chiếc bóng. Chúng ta mãi mê chạy theo một chiếc bóng mà quên rằng, niềm vui
đích thực, hạnh phúc đích thực lại nằm ngay trong chính tầm tay của chúng ta.
Câu chuyện gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay cho chúng ta thấy điều
đó.
Tin Mừng
thuật lại, các môn đệ đã thả lưới thâu đêm mà không bắt được con cá nào. Tình cờ
có một người lạ mặt xuất hiện bảo họ hãy thả lưới bên phải và mẻ cá nhiều đến nỗi
lưới muốn rách và thuyền muốn chìm. Chúa Giêsu đến với các môn đệ như một người
vô danh, không kèn, không trống, không một biểu dương rầm rộ nào. Ngài đến một
cách kín đáo nhẹ nhàng. Ngài hiện diện một cách âm thầm và vô danh như chính
sinh hoạt thường nhật của chúng ta. Chúa Giêsu đã chọn cảnh sống thường ngày của
con người để hiện ra với các môn đệ. Ngài đến vào giữa lúc các ông đang thả lưới.
Ngài tham dự vào bữa ăn của các ông. Ánh lửa mà Chúa Giêsu đã đốt lên bên bờ hồ
Tibêria buổi sáng hôm đó đã soi sáng tâm hồn các môn đệ, để các ông hiểu rằng,
Chúa Kitô Phục Sinh đang có mặt trong từng phút, từng giây của cuộc sống con
người và chỉ có sự hiện diện ấy mới có đủ sức biến những sinh hoạt tầm thường
nhất của con người như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ trở thành những niềm vui
đích thực trong cuộc sống.
Lạy Chúa
Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con cảm nếm được niềm vui vì có Chúa luôn hiện
diện với chúng con. Amen.
THỨ NĂM BÁT NHẬT PHỤC SINH
Lc 24,35-48
"Chính
anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24,48)
1. Thánh
Luca tường thuật tiếp về cuộc hiện ra lần thứ hai của Chúa Giêsu Phục Sinh với
các môn đệ của Ngài. Lần này Chúa hiện ra cho các tông đồ ở Jêrusalem:
Trong lúc
hai môn đệ vừa trở về từ Emmau đang kể lại cho nhóm mười một việc Chúa hiện ra
với các ông ấy như thế nào thì Chúa Giêsu hiện đến.
Ngài chứng
minh cho các ông hiểu sau khi sống lại, Ngài vẫn là một như trước: cũng có chân
tay xương thịt, và cũng biết ăn uống.
Ngài dùng
Thánh Kinh để cắt nghĩa.
Ngài bảo
các ông nhân danh Ngài “rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội.”
(Lc 24,47)
2. “Chính
Thầy đây. Hãy sờ xem: Ma đâu có xương thịt như Thầy có đây” (Lc 24,39). Chúa
Giêsu Phục Sinh đang sống và hiện diện ngay trong cuộc sống của những người tin
Chúa. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự
thật. Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một. Chúng ta phải xác tín thật
mạnh về sự thật đó để rồi từ đó chúng ta xây dựng nên một xã hội huynh đệ hơn.
Ngày kia,
có một đan viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn giáo tại chân núi
Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng
bi đát của tu viện do ông điều khiển. Trước kia tu viện này là một trong những
trung tâm Công giáo thu hút không biết bao nhiêu là khách hành hương hằng năm.
Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ
khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở.
Nay tu viện
gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những người trẻ tìm đến tu
viện hầu như không còn. Nhà nguyện vắng tanh không ai lui tới. Một số nhỏ tu sĩ
còn lại thì sống trong uể oải, buông thả…Vị viện phụ muốn hỏi vị tu sĩ Ấn giáo
xem đâu là nguyên nhân đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội lỗi tày
đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?
Sau khi
nghe viện phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn giáo mới ôn tồn nói:
- Cái tội
đã và đang xảy ra trong cộng đoàn: đó là tội vô tình.
Vị tu sĩ Ấn
giáo mới giải thích như sau:
- Đấng Cứu
Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận
ra Ngài.
Nhận được
lời giải thích của vị tu sĩ Ấn giáo, đức viện phụ hối hả quay trở về tu viện,
trong lòng ông không khỏi miên man đặt câu hỏi: “Ai là người được Đấng Cứu Thế
đang mượn hình dáng để ở lại với loài người?”. Cả tu viện bây giờ không có đến
10 người. Đấng Cứu Thế ở với ai đây? Chắc không thể là mình, vị tu viện trưởng
nghĩ như thế vì ông biết mình là một con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng
biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện. Cũng chẳng có người nào toàn vẹn, xứng
đáng để Đấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng của họ. Thế nhưng, ông vẫn tin lời của
vị tu sĩ Ấn giáo là Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó trong cộng
đoàn.
Với niềm
xác tín ấy, ông qui tụ tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng,
Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Nghe tin ấy, đôi mắt mỗi
người đã mở to và ai nấy bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc
chắn là: bởi vì Đấng Cứu Thế đã cải trang cho nên không ai có thể nhận ra Ngài
được. Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Đấng Cứu Thế. Và từ đó mọi người
sống với nhau như chính mình đang sống với Đấng Cứu Thế. Rồi chẳng mấy chốc bầu
khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Cuộc sống
thánh thiện như thế không mấy chốc được đồn thổi đi khắp nơi. Và các tín hữu lại
từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến
gõ cửa nhà dòng.
3. Vâng!
Nếu người người ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa
Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không còn có lý do để tồn tại trên mặt
đất này. Sự vắng bóng Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con
người làm cho họ không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi
thứ bất hoà, chiến tranh xáo trộn trong xã hội.
Kinh nghiệm
cho chúng ta thấy khi con người chối bỏ Thiên Chúa thì cũng có nghĩa là họ sẽ
chối bỏ con người.
Con người
là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã trở thành con người và tự
đồng hóa với con người. Từ nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người
anh em của mình. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay
thù địch, mỗi một con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua
tình yêu đối với con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa.
THỨ TƯ BÁT NHẬT PHỤC SINH
Lc 24,13-35
"Mắt
họ liền mở ra và họ nhận ra Người,
nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24,31)
nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24,31)
1. Sau
Mátthêô và Gioan, đến phiên thánh Luca tường thuật. Tin Mừng của Luca được gọi
là “Tin Mừng của người môn đệ”.
Có hai
môn đệ, nhưng Luca chỉ nêu tên một người là Clêôpha, người kia không tên, có lẽ
Luca muốn độc giả hiểu người vô danh ấy là bất cứ môn đệ nào của Chúa. Độc giả
cũng có thể coi mình là chính môn đệ ấy để được chia sẻ với người môn đệ này những
cảm nghiệm thật thú vị trên đường.
Hai môn đệ
này là những người đã có một thời theo Chúa. Thế nhưng, cái chết của Chúa đã
khiến họ hoang mang và bỏ cuộc. Họ đang cùng nhau trên đường trở về quê quán của
mình.
Hai môn đệ
đã bỏ Chúa nhưng Chúa không bỏ họ. Ngài vẫn đồng hành với họ dù họ không nhận
ra Ngài.
Để làm sống
lại niềm tin nơi hai môn đệ này, Chúa Giêsu đã dùng hai phương thế: Thánh Kinh
và việc “bẻ bánh”. Thánh Kinh và Bí tích Tạ ơn đã giúp họ tìm lại được niềm tin
và cuộc đời của họ đã được đổi mới.
Như vậy,
chúng ta có thể nói: Ý chính của bài tường thuật này là: Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn
đang sống, Ngài ở kề bên chúng ta. Hai nơi thuận tiện nhất để chúng ta nhận ra
Ngài là Thánh Kinh và Thánh Lễ.
2. Khi
không nêu tên người môn đệ kia, thánh Luca dường như muốn cho chúng ta hiểu rằng,
mỗi người chúng ta là người môn đệ ấy. Hãy đặt mình vào con người của người môn
đệ ấy để cảm nghiệm được niềm vui khi nhận ra Chúa Phục Sinh.
Khi đức
tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta hãy chạy đến với Thánh
Kinh, Bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin để xây dựng lại. Thánh Kinh,
Thánh Thể và cộng đoàn đức tin là ba cột trụ vững chắc để nâng đỡ niềm tin của
chúng ta.
Jacques
Loew là người phu khuân vác ở bến tàu. Anh là đảng viên của đảng Lao Động Thụy
Sĩ. Bỗng một hôm anh nảy ra ý định thử đi tìm hiểu điều mà những người Công
giáo vẫn tin tưởng là có thực đó là “có một Thiên Chúa”. Anh muốn biết điều đó
có thực hay không? Muốn là làm. Anh tìm đến một dòng khổ tu và nói rõ ý định của
mình với cha bề trên của dòng. Với nụ cưới thật tươi trên môi, cha bề trên rất
cảm động nói với anh những lời này:
- Anh đã
đi đúng đường rồi đó, anh cứ tiếp tục đi đi. Anh hãy coi tu viện đây như là nhà
của anh.
Rồi cha bề
trên giơ tay chỉ nhà nguyện và nói:
- Đây là
nhà nguyện, nếu anh muốn xin mời anh vào.
Lúc ấy
nhà nguyện đang có Thánh lễ. Jacques Loew đi vào. Anh quì xuống như bao người
khác. Rồi anh cứ quì mãi trong khi những người khác đã thay đổi vị thế, khi ngồi,
khi đứng. Đến lúc đã mỏi gối, anh ngồi lên thì lúc đó lại là lúc mọi người khác
trong nhà nguyện đều quì sụp xuống vì đó là lúc truyền phép Mình Máu Thánh
Chúa.
Đến lúc
rước lễ, hầu như tất cả đều lên rước lễ, trừ anh thì cứ ngồi lại tại chỗ. Anh
nghĩ thầm trong lòng: Mình thật không giống ai.
Ngồi ngó
những người lên rước lễ đi xuống, anh nhận ra có rất nhiều khuôn mặt khác nhau:
người học thức, kẻ có địa vị cao ngoài xã hội, và dĩ nhiên cũng có cả những người
bình dân nữa. Jacques Loew tự hỏi: Sao những người này mê tín thế? Ăn miếng
bánh nhỏ bằng đồng xu kia để làm gì? Họ có điên không?
Nhưng rồi
ý tưởng trên đây của Loew đã bị một tư tưởng khác tấn công: không lẽ tất cả những
người học thức, có địa vị ngoài xã hội hơn mình, họ lại điên, còn mình thì lại
khôn sao? Hay là ngược lại, tôi điên?
Thế rồi,
Jacques Loew bắt đầu đi tìm hiểu về phép Thánh Thể với cha bề trên. Sau một thời
gian, anh đã tâm sự:
"Bây
giờ tôi có thể nói như hai môn đệ Emmau: "Tôi nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ
bánh". Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới biết là chúng tôi là anh chị em với
nhau trong Chúa Kitô. Có những người mà trước đó gặp ở ngoài đường, chúng tôi dửng
dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng tôi thấy gần gũi với
nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi, bởi chúng
tôi cùng tin Tin Mừng, cùng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu Chúa
Kitô". Sau này Jacques Loew đã trở thành một linh mục. Ngài đã hoạt động rất
tốt trong phong trào Linh Mục thợ.
Lạy Chúa,
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Xin ở lại
với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Xin ở lại
với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn.
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn.
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại
với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện. Amen.
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện. Amen.
THỨ BA BÁT NHẬT PHỤC SINH
Ga 20,11-18
Bà
Maria Mađalêna đi báo cho các môn đệ:
"Tôi đã thấy Chúa",
và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.”
(Ga 20,18)
"Tôi đã thấy Chúa",
và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.”
(Ga 20,18)
1. Việc
Phục Sinh của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn ý nghĩ và tình cảm của con người trước
cái chết. Trường hợp bà Maria Mađalêna là một thí dụ. Khi thấy xác Chúa không
còn ở trong mồ, bà buồn, bà khóc. Nhưng rất may Chúa đã hiện ra với bà, gọi tên
bà và bà đã nhận ra Chúa. Mọi sự thay đổi bắt đầu từ đây.
Người ta
kể khi thấy chồng gần đất xa trời, bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng
đến, nhờ ông tìm cho người chồng sắp quá cố của bà là Tổng Thống Charles De
Gaulle đã về hưu một nơi an nghỉ cuối cùng. Người này thân hành chở bà đến một
sườn đồi. Trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói:
- Đây là
nơi an nghỉ rất xứng đáng cho người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn
200.000 francs. (Một số tiền rất lớn... nếu tính theo thời giá hôm nay thì khoảng
gần 5 tỷ đồng VN)
Trong lúc
bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp:
- Ông nhà
thật xứng đáng được hưởng sự ưu đãi đó.
Vừa nghe
tới đó bà vội vàng đáp lại một lời làm cho ông cụt hứng:
- Nhưng
ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà!(Góp nhặt)
(Ý bà muốn
nói Chúa Giêsu chỉ cần ngôi mộ có ba ngày thôi cho nên đâu cần phải quá tốn phí
cho một thi hài, dù thi hài đó là thi hài của một vị tổng thống!)
2. Phải
nói là tình cảm của Maria Mađalêna đối với Chúa Giêsu thật hết sức đậm đà: Khi
không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc. Cả thế giới này không còn một ý nghĩa gì đối
với bà nữa. Thiên thần hiện ra bà coi như không! Chính Chúa Giêsu ở trước mặt
mà bà cũng tưởng là người giữ vườn. Nhưng rồi khi bà nhận ra Chúa, bà đã vui mừng
hớn hở chạy đi báo tin cho mọi người ngay. Tóm lại, đối với Maria, Chúa Giêsu
là tất cả. Mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ. Gặp lại Chúa là có lại tất cả.
Người ta
kể lại vào hồi Đức Quốc xã giam giữ những người có đạo, có một người đàn bà rất
nổi tiếng tên là Archengette. Bà Archengette bị giam cùng với hàng trăm ngàn
người khác. Có lần bà đã kể lại: Một buổi chiều kia, một cô bạn tù ghé vào tai
tôi se sẽ hỏi:
- Chị có
biết ngày mai là ngày gì không? Mai là lễ Phục Sinh đấy chị ạ.
Tôi ngạc
nhiên nói bâng quơ:
- Đã đến
lễ Phục Sinh rồi sao?
Lễ Phục
Sinh là ngày lễ trọng, và là ngày vui của toàn thể nhân loại, vì Chúa Giêsu đã
sống lại, để mở cánh cửa cuộc sống trường sinh cho con người, thế mà chúng tôi
lại bị giam giữ trong căn nhà tù này, xa cách mọi người thân yêu, cô đơn, đau
khổ...Tôi đi đi lại lại trong căn nhà chật hẹp, hôi hám. Đầu óc thì còn đang
theo đuổi những ý tưởng vừa mới xuất hiện. Mặt mũi buồn so.
Bỗng tôi
nghe thấy có tiếng kêu lớn, phá tan bầu không khí im lặng đang nặng nề đè trên
chúng tôi. Tiếng kêu ấy thế này: “Chúa Kitô đã sống lại”.
Tôi kinh
ngạc nhìn cô bạn tù. Đôi mắt cô long lanh. Hai hàng giọt lệ đang từ từ chảy ra,
để cho chúng lăn trên đôi gò má cao nhô lên giữa khuôn mặt xanh xao gầy ốm của
cô. Thế rồi bỗng khuôn mặt ấy tươi hẳn lên.
Tiếp đó từ
trong các phòng khác của nhà tù, tôi đều nghe thấy tiếng trả lời, tưởng như tiếng
vang vọng không ngừng:
“Chúa
Kitô đã sống lại... Chúa Kitô đã sống lại”.
Những tiếng
phát ra từ trong các phòng nhà tù đó, đã trở thành một điệp khúc như của một
bài ca chiến thắng.
Bọn
lính canh tù bực tức đến tột độ. Gương mặt của chúng hằm hằm giận dữ. Rồi chúng
mở cửa phòng chúng tôi đang ở, nhào vào, lôi cô gái bạn tù ốm yếu của chúng tôi
đi...
Bốn ngày
sau, cô được trả trở về phòng với chúng tôi. Cô bé của chúng tôi thật là đáng
thương. Đôi má của cô đã hóp, sau 4 ngày lại càng hóp thêm. Gương mặt xanh như
tầu lá. Lúc sau nhờ cô kể lại chúng tôi mới biết, cô đã bị nhốt trong một căn
phòng chật hẹp tối tăm và phải nhịn đói suốt 4 ngày nay. Tôi còn nhớ thật rõ
lúc chạy ra cửa để dìu cô vào phòng, cô thều thào nói với tôi:
- Chị ơi,
em đã loan báo sứ điệp Phục Sinh trong nhà tù này. Tất cả mọi chuyện khác đều
không quan trọng.
Nếu ngày
xưa đã có những người như Mađalêna, đã có cô bé can đảm dám loan báo Tin Mừng
Phục Sinh cho mọi người thì ngày nay cũng phải có những người can đảm như Maria
Mađalêna, như cô bé trong nhà tù! Thế giới hôm nay, một thế giới càng ngày càng
trở nên xa lạ với Chúa Giêsu đang cần những con người như thế.
Lạy
Chúa, giữa thế giới đầy bận rộn và náo nhiệt này, xin cho chúng con biết lắng
tai nghe tiếng Chúa. Xin hãy mở rộng đôi tay còn khép kín của chúng con, để
chúng con biết mau mắn thi hành “sứ điệp” Chúa gửi đến cho chúng con trong cuộc
sống hằng ngày. Amen.
THỨ HAI TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Mt 28,8-15
"Các
bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng,
chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.” (Mt 28,8)
chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.” (Mt 28,8)
Các bài
Tin Mừng trong tuần bát nhật Phục sinh đều tường thuật về những cuộc hiện ra của
Chúa Giêsu sau khi Chúa sống lại. Phụng vụ đã chọn những bản văn có trong 4 quyển
Tin Mừng để trình bày cho chúng ta thấy bốn cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho
nhau, về sự kiện Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.
1. Hôm
nay thánh Mátthêô thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh:
Các phụ nữ
đến mồ, thấy mồ trống. Họ gặp thiên thần. Thiên thần cho họ hay Chúa Giêsu đã sống
lại và bảo họ đi báo tin cho các môn đệ, bảo cho các môn đệ biết là Chúa chờ họ
tại Galilê.
Sự Phục
sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Chúa với các môn đệ lên một bậc: họ
trở thành anh em của Ngài. Chúa đã gọi môn đệ “anh em”:
Và cuối
cùng chúng ta thấy tiền bạc lại được sử dụng vào những mục đích xấu: Người ta
đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc chúng. Tiền bạc lại một lần nữa làm
xuyên tạc sự thật.
2. Vâng
việc Chúa sống lại rõ ràng đã đem lại nhiều thay đổi thật là lùng:
+ Những
người có liên hệ với Chúa sẽ không còn sợ hãi nữa. Với việc Chúa Phục
Sinh những người phụ nữ đã biến nỗi “sợ hãi” khi chứng kiến việc Chúa chịu nạn
chịu chết, sang lòng “kính sợ” trước quyền năng của Thiên Chúa. Lòng “kính sợ”
này đi kèm với niềm “vui mừng hớn hở”. Vâng đó là một kết quả hết sức bất ngờ đối
với các bà đạo đức. Khi con người thực sự tin vào quyền năng Chúa, thì họ sẽ
không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí họ còn có thể “vui mừng hớn hở”
trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.
Một tu sĩ
dòng tên thuật lại câu trả lời đầy xúc động sau đây của một thủy thủ sắp chết.
Anh luôn sống đạo đức. Đây là điều hiếm ở nơi các thủy thủ, và trong buổi sáng
hôm đó, anh nhận của ăn đàng. Buổi chiều, khi linh mục đến để gặp lại anh và thấy
anh rất yếu, bèn hỏi:
- Con đã
sẵn sàng cho chuyến đi lớn lao chưa?
- Thưa
Cha, hoàn toàn sẵn sàng.
- Con
không sợ ư?
- Sợ? Con
sợ ư? Nhưng tại sao lại sợ?
Và đặt
tay lên ngực, nơi Chúa ngự đến buổi sáng, anh nói thêm:
- Hoa
tiêu đã xuống thuyền, vậy con còn sợ gì nữa chứ?
+ Chúa
Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài. Sự Phục sinh của
Chúa không những đã cứu chuộc loài người, trả lại cho loài người quyền làm con
Thiên Chúa, lại còn biến con người trở "anh em" với Chúa Giêsu! Đây
là một hồng ân thật cao cả lớn lao hơn tất cả những hồng ân khác.
Một người
hát thánh ca rất nổi tiếng của Mỹ được mời lên một con tàu chở khách, để hát
cho những hành khách trên tàu nghe.
Đêm đó, tất
cả những hành khách tập hợp trên boong tàu để thưởng thức tiếng hát rất hay của
anh.
Tiếng hát
của anh ta làm tất cả khán giả rung động tâm hồn. Khi anh ta vừa hát xong, thì
một ông khách cao to, da đen bước đến bên cạnh anh hỏi:
- Xin hỏi,
trước đây anh đã từng đầu quân ở Bắc Mỹ phải không? Anh có còn nhớ vào một đêm
trăng sáng năm 1862, anh đứng gác trên một vọng gác không?
- Tôi nhớ.
Anh ta đáp. Nhưng trong lòng hơi lo lắng vì không hiểu ý của ông ta muốn gì.
- Phần
tôi, tôi còn nhớ rất rõ. Người đó nói. Lúc đó tôi đang ở bên đối địch với anh.
Tôi nhìn thấy anh đứng trên vọng gác. Anh ở chỗ sáng. Tôi ở trong tối, nhất cử
nhất động của anh tôi đều thấy rõ. Khi tôi định lên đạn, thì nhìn thấy anh đang
chuẩn bị cất tiếng hát. Thật lòng tôi muốn bắn anh ngay nhưng tự nhiên có cái
gì đó cản lại, chờ cho đến khi anh hát xong thì tôi sẽ bắn. Bài hát hôm đó cũng
đó cũng chính là bài hát anh vừa mới hát. Những lời trong bài hát ấy đã khiến
tôi rất xúc động. Thế là tôi không còn can đảm để có thể bắn anh nữa”.
Nghe tới
đây, người hát thánh ca không cầm được nước mắt. Anh giang rông hai cánh tay ôm
chầm láy ông khách.
Một bài
hát đã đánh đổi được một mạng người, làm cho kẻ thù trở thành bạn bè. Việc đó
quả là một điều kì diệu.
Trên chiến
trường trước kia, họ là kẻ thù của nhau, nhưng bây giờ họ đã trở thành bạn bè.
Việc Chúa
Phục sinh đã làm cho các môn đệ và cả chúng ta trở thành anh em của Ngài. Đây
là một hồng ân. Hãy tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu muôn đời.
Lạy Chúa,
xin làm cho tâm hồn chúng con tràn ngập niềm vui của những người được Chúa cứu
chuộc, để chúng con biết đem sinh khí đến cho những người đang tuyệt vọng, đem
nụ cười đến cho kẻ đang khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh
sáng vào nơi tối tăm, xây dựng nên một thiên đàng của Chúa trên trần thế hôm
nay. Amen.
Thứ Tư, 16 tháng 3, 2016
Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016
THỨ BẢY TUẦN 5 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 11,45-56
"Thà
một người chết thay cho dân
còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.”
(Ga 11,50)
còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.”
(Ga 11,50)
Bài
Tin Mừng: các thượng tế và Pharisêu hạ quyết tâm giết Chúa. Thượng tế Caipha
nói: “Thà một người chết thay cho dân” (Ga 11,50).
Vâng!
Chúa Giêsu đã chịu chết thay cho người khác qua đó rõ ràng là Chúa muốn cho
chúng ta thấy một hành động lý tưởng mà sự khôn ngoan của chúng ta không nghĩ tới
được.
Ngày kia
giáo trưởng Alihamet dõng dạc tuyên bố với các đệ tử của ông:
- Ta thấy
đã đến lúc chúng ta lại phải lên đường. Ta không biết những gì sẽ xảy ra. Các
ngươi hãy tuân giữ những điều ta đã truyền dạy. Và các ngươi hãy nhớ kỹ điều
này: Trong bất cứ cảnh huống nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô lớn:
"Tôi chết thay cho thầy tôi!".
Đám môn
sinh nhận thấy không thể chấp nhận được một lệnh truyền điên rồ như thế. Tất cả
đều rút lui. Chỉ có một người dám chấp nhận và quyết tâm đi theo thầy.
Hai thầy
trò lên đường và không biết sẽ đi về đâu. Họ đi mãi cho đến lúc tới một thành
phố do một bạo chúa cai trị. Bạo chúa này đã ra lệnh cho binh lính: "Các
ngươi phải bắt tên du thủ du thực đầu tiên nào mà các ngươi gặp và điệu tới cho
ta. Ta muốn treo cổ hắn để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này”.
Thế là,
khi vừa đặt chân tới cổng thành, người đệ tử của vị giáo trưởng liền bị lính bắt
và điệu tới trước mặt bạo chúa.
Lúc cuộc
hành quyết sắp bắt đầu thì vị giáo trưởng mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn:
-Thưa
ngài, xin hãy giết tôi. Vì chính tôi đã dụ dỗ người thanh niên này bỏ nhà ra đi
để sống cuộc đời lang thang như tôi.
Nói xong,
ông giơ tay lên trời.
Vừa thấy
cử chỉ ấy của thầy mình, người đệ tử liền hô lên:
- Thưa
quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi.
Nghe thế,
bạo chúa lấy làm lạ, ông mới hỏi các viên cố vấn:
- Chúng
là ai mà lại sẵn sàng chết thay cho nhau như thế?
Các cận vệ
đều ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ bạo chúa đòi điệu giáo trưởng đến và yêu cầu giải
thích lý do.
Vị giáo
trưởng bình thản trả lời:
- Thưa
quan lớn, chúng tôi có nghe nói rằng, bất cứ ai bị giết trong thành phố này đều
được phúc trường sinh bất tử. Vì thế mà thầy trò chúng tôi đã hăm hở tới đây để
được chết.
Nghe thế,
bạo chúa mỉm cười và ra lệnh thả tự do cho hai người. Cũng lúc ấy, người đệ tử
chợt hiểu rằng, ai dám hy sinh mạng sống vì người khác thì sẽ tìm lại được.
Và
câu chuyện có thật sau đây còn kỳ diệu hơn.
Bác sĩ
Duan Cortez viết một bức thư cho tờ báo y học Medimundo ở Nam Mỹ.
- Tôi
không thể giải thích được hiện tượng này, tôi đã khám nghiệm và tuyên bố đứa bé
đã chết, nhưng vài giờ sau em bé này đã sống lại và mẹ em đã chết, cứ như là bà
ta đã hút căn bệnh ung thư ra khỏi xác chết của con gái qua cơ thể bà.
Bé
Argelina sống ở thành phố Darila, Argelina, đã can đảm chấp nhận chịu đựng chứng
bệnh ung thư bao tử hơn hai năm nay (trường hợp ung thư rất hiếm xảy ra cho người
dưới 30 tuổi). Sau nhiều cuộc giải phẫu và nhiều cách điều trị với tất cả mọi cố
gắng, Bác sĩ Cortez đã phải báo tin buồn cho bà Maria rằng: ông ta đã bó tay và
bé Argelina đã chết!
Theo lời
Bác sĩ Cortez, bà Maria đã hóa điên cuồng khi nghe tin. Bức thư viết tiếp:
"Bà
không cho bất cứ ai đụng đến thi thể con gái, bà chỉ quỳ bên giường đứa bé đã
chết và cầu nguyện. Chúng tôi nghe bà cầu nguyện xin Thượng Đế để cho bà chết
thay cho con. Tôi nghĩ nên tránh đi một lát để mặc bà một mình với đứa bé đáng
thương đó. Tôi bảo các y tá cùng ra khỏi căn phòng với tôi, khi trở lại tôi
không tin vào mắt mình nữa: Argelina đang đứng cạnh giường, trông rất rực rỡ và
khỏe mạnh. Bà mẹ đang gục đầu trên giường, hầu như không thể cử động! Bà thều
thào nói với tôi:
- Thưa
Bác sĩ, Thượng Đế đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi.
Bác sĩ
Cortez nửa kinh ngạc, nửa hoài nghi. Ông cho khám nghiệm bé Argelina và thấy rằng,
cô bé hoàn toàn khỏe mạnh, không dấu vết nào của bệnh ung thư còn sót lại trong
cơ thể. Một loạt những xét nghiệm tiếp theo, ông thấy bà Maria sắp chết vì chứng
bệnh ung thư bao tử mà nó đã giết chết con gái bà. Các thân nhân của bà Maria
cũng kinh hoảng, họ đến bên giường để trấn an bà, hứa sẽ nuôi nấng dạy dỗ bé
gái nên người. Bà Maria chết sau đó vài giờ.
Bác sĩ
Cortez nói:
- Tôi không
thể giải thích hiện tượng này trên phương diện y học. Thực sự đây là một phép mầu,
vì rõ ràng là bé Argelina đã chết. Có lẽ, tôi chưa hiểu hết sức mạnh của tình mẫu
tử hoặc một thế lực siêu-tự-nhiên nào đó!
Cầu
nguyện : Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu lời thánh Phanxicô: "Chính lúc
chết đi là khi vui sống muốn đời". Amen.
THÁNH GIUSE BẠN TRĂN NĂM ĐỨC MARIA
NGÀY 19
THÁNG 3
Lời Chúa : Mt 1,16.18-21.24a
Lời Chúa : Mt 1,16.18-21.24a
Hôm nay
chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse
Đọc
kỹ lại Tin mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về công việc
của Chúa. Chúa làm những việc mà con người khó có thể đoán trước được.
Thường thì để làm một công việc gì, chúng ta
thấy con người luôn phải ưu tiên nghĩ đến vấn đề nhân sự. Những tiêu chuẩn người
ta đặt ra để tìm kiếm những con người cho phù hợp với những chức danh hay những
địa vị cũng thật quan trọng.
Khi khởi sự một công trình lớn lao vô tiền
khoáng hậu: Công trình cứu chuộc cả loài người để loài người được thoát khỏi
ách thống trị tội lỗi thì Thiên Chúa cũng đã không đi ra ngoài khuôn khổ đó.
Chúa cũng phải chú trọng đến vấn đề nhân sự. Và những người đầu tiên Thiên Chúa
đã chọn đó là ai thì anh chị em đã biết. Đó là Đức Maria và Thánh Cả Giuse.
Chúng ta
tự hỏi Chúa đã dựa vào tiêu chuẩn nào để chọn thánh Giuse.
Chúa không dựa vào những tiêu chuẩn mà con người thường dựa vào đó để tuyển chọn
như trình độ, có khả năng, có kinh nghiệm nhưng Tin mừng hôm nay cho chúng ta
thấy rõ tiêu chuẩn Chúa muốn là tiêu chuẩn như thế nào: Thánh Matthêo đã ghi “Ông
Giu-se, chồng bà, là người công chính” (Mt 1,19)
Vâng,
Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính nơi một người thợ mộc
nghèo khó để chọn thánh Giuse cộng tác với Người trong công việc vô cùng trọng
đại đó là công trình cứu chuộc loài người.
Nếu chúng ta có dịp nhìn lại toàn bộ Kinh
Thánh thì chúng ta cũng thấy mỗi khi tuyển chọn ai thì Chúa cũng theo tiêu chuẩn
ấy.
Đây là một
ít thí dụ: Chúa đã chọn ông Dacaria và bà Elizabeth. Thánh Luca ghi: Cả hai ông
bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa sống đúng theo
mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì (Lc 1,5).
Chúa chọn
Gioan Tẩy Giả. Thánh Maccô cho biết khi Gioan phải đối diện với cái chết “Thật
vậy, vua Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông,
và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe
(Mc 6,20).
Vâng đúng
là Thiên Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính để chọn những công tác với
Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.
Chúa
yêu thích sự công chính đạo đức. Tại sao thế? Chúng ta thừa biết một
xã hội mà thiếu những con người đạo đức công chính thánh thiện thì xã hội ấy sẽ
như thế nào.
Đây là lời
của sách Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát,
thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan? (Kn 8,5)
Chúng ta
hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta
theo chuẩn mực của Ngài.
Muốn
được Thiên Chúa quí chuộng và ban ơn thì không có con đường nào khác hơn là con
đường trở nên công chính đạo đức.
Sách Giáo
Lý mới số 227 đã viết thật hay: Đối với những ai lo tìm kiếm Nước Trời và sự công
chính của Thiên Chúa, Người hứa sẽ ban cho họ đủ mọi sự. Mọi sự đều là
của Chúa: ai có được Thiên Chúa thì có mọi sự, miễn là Thiên Chúa có người ấy
(T. Cyprien 21).
Thánh
Augustinô nói: "Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến
Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình.” Chúng ta dành cho Người
một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ
vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy
của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)" Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất
(T.Augustinô những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).
Một cô
kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi
mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16
tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến
thăm và an ủi cô. Bà này hỏi:
- Cháu có
sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc
nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả
lời:
- Thưa
bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói
làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ
khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn
thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.
Người đến
thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói:
- Khi gặp
Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi,
cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Vâng Chúa
biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó
chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải
là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố
gắng làm những điều mà chúng ta có thể làm hay không. Thánh Giuse đã làm như thế
trong cả cuộc đời của Ngài. Và ngày nay Ngài đã được Chúa ân thưởng vinh quang
trên nước trời.
THỨ SÁU TUẦN 5 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 10,31-42
"Như
vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng:
Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha." (Ga 10,38)
Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha." (Ga 10,38)
Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu nói trắng ra “Tôi là Con Thiên Chúa” (Ga 10,36). Lần này, họ
kết tội là Ngài phạm thượng.
Nhìn thấy
sự khó tin của người Do Thái đối với Chúa Giêsu, rồi nhìn lại đức tin của mình
sao mà đức tin của chúng ta dễ dàng quá: ngay từ khi mới sinh ra chúng ta đã được
biết Chúa và tin Chúa.
Một người
da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập
đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả một năm sau mới gia nhập đạo.
Trong một buổi phục vụ, người da trắng hỏi:
- Tôi phải
mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân
đáp:
- Này bạn,
để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử kia hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn
nhìn vào áo mình và tự nhủ: Áo mình còn đẹp, để mai hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn
vào tấm áo cũ kỹ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới
ngay. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi
không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. (Góp nhặt)
Hãy cám
ơn Chúa đã ban đức tin cho chúng ta và xin Ngài gìn giữ đức tin ấy khỏi bị lạc
mất.
Chúng
ta tin Chúa nhưng Chúa là gì đối với chúng ta? Trả lời được câu hỏi này không
phải là dễ.
Trong tập
thơ "Cát và sóng", một thi sĩ nọ đã viết một bài thơ về Chúa Giêsu với
nội dung như sau:
Cứ mỗi
trăm năm,
Chúa
Giêsu của thành Nazareth lại gặp Chúa Giêsu của người Kitô hữu.
Hai bên
đàm đạo với nhau thật lâu giờ.
Và cứ mỗi
lần gặp gỡ như thế, Chúa Giêsu Nazareth lại từ giã Chúa Giêsu của người Kitô hữu
bằng những lời thật buồn như thế này:
"Này
bạn, tôi sợ rằng, chúng ta sẽ không bao giờ đồng ý với nhau".
Chúa
Giêsu, con người của lịch sử đã sinh ra cách đây hơn 2000 năm tại Nazareth. Con
người đã từng sống và chết như một con người ấy, lại cũng chính là Thiên Chúa.
Có lẽ chúng ta sẽ tự hỏi: Làm sao Ngài có thể vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Người
được?
Xuyên suốt
lịch sử của Giáo Hội và của thế giới, đã không thiếu những người thắc mắc như
thế.
Thế
nhưng, đọc lại Tân Ước, chúng ta thấy Chúa đã quả quyết rất rõ: Ngài vừa là
Thiên Chúa, vừa là Con Người. Tiếng La tinh đã có một kiểu diễn tả rất hay về
việc này: Homo-Deus. ( Người-Chúa)
Chúa
Giêsu là Thiên Chúa thật. Trong ba năm sống công khai, Ngài đã không ngừng xác
quyết rằng: Ngài cao trọng hơn Abraham, tổ phụ người Do Thái, lớn hơn Môisen, người
lãnh đạo cuộc giải phóng dân tộc Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập. Ngài còn tự
cho mình có quyền tha tội và là quan xét tối cao của người sống, kẻ chết. Ngài
tuyên bố mình là Đấng sẽ sai Thánh Thần đến và ban sự sống vĩnh cửu. Ngài muốn
người ta tin nhận Ngài như tin vào Thiên Chúa. Ngài đòi hỏi con người phải yêu
mến Ngài đến hy sinh mạng sống mình. Ngài quả quyết Ngài và Thiên Chúa là một.
Tất cả những lời tuyên bố trên đã được Chúa Giêsu chứng thực và xác nhận bằng
các phép lạ, trong đó sự sống lại của Ngài là bằng chứng cao cả nhất về Thần
Tính của Ngài.
Là Thiên
Chúa thật, nhưng Chúa Giêsu cũng là một con người thật. Con người đó cũng có một
thân xác như chúng ta. Về phương diện tình cảm, Ngài biết rung động trước vẻ đẹp
của cảnh vật thiên nhiên. Ngài nghiêng mình và xoa dịu những vết thương đau của
nhân loại, nhất là những kẻ yếu đau và người tội lỗi. Dù vậy, Ngài luôn luôn tỏ
ra cương quyết và chín chắn, hoàn toàn làm chủ được lời nói và hành động của
mình. Thêm vào đó, Ngài cũng để lộ một trí thông minh vượt bực, nhưng dĩ nhiên
Ngài cũng phải học biết dần dần nhờ các cơ năng cảm giác và óc lý luận. Thu nhận
được những hiểu biết trong đời sống thường ngày của người Do Thái, Chúa Giêsu
đã biết lợi dụng những hiểu biết đó để diễn tả tư tưởng của Ngài cho dễ hiểu
hơn.
Xin được
kết thúc bằng lời cầu nguyện của Cha F. Lelotte
Lạy Chúa,
xin cho con một lòng trung tín mạnh hơn cả cái chết, hơn những sự hăng hái
chóng qua, ngắn ngủi, hơn những việc làm hay một thành công sáng tỏ nào đó.
Ước gì sức
toàn năng của Chúa thổi vào và làm cháy đỏ lên trong con lòng nhiệt thành và
làm bừng lên những ngọn lửa sáng, giữa những sự tối tăm bên ngoài.
Lạy Chúa,
Vua của con, xin ban cho con ngọn lửa thánh, một đức tin mạnh như vũ bão, một
nguồn sống dồi dào, để con có thể sống như một chứng nhân cho sự hiện diện của
Chúa giữa cuộc sống này. Amen.
THỨ NĂM TUẦN 5 CHAY
Lời Chúa : Ga 8, 51-59
Đức
Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông:
trước khi có ông Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”
(Ga 8,58)
trước khi có ông Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”
(Ga 8,58)
Chúa
Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong đoạn Tin Mừng này, Ngài
nói hơi xa xôi: "Khi người Do Thái hỏi: Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng
tôi là Abraham sao?" (Ga 8,53), Ngài đáp “Khi Abraham chưa sinh thì đã có
Ta rồi.” (Ga 8,58) Ý Ngài muốn cho họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những
họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.
Như vậy,
chúng ta thấy lúc Chúa Giêsu muốn mặc khải rõ hơn về thân thế của Ngài, thì với
cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm của một con người xác thịt, người Do
Thái vẫn không nhận ra Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy
Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông là người bị quỷ ám.” (Ga 8,52)
Nhiều người
thời nay cũng vậy. Họ không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin
Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có
quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó có cả những thành kiến do những kẻ có đạo
tạo nên.
Làm
sao cho con người nhận ra được Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, điều đó không phải
dễ.
Ngày nọ,
Đức Giám Mục John Selwyn thấy con trai của một người bản địa cư xử thô bạo với
kẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những cậu ta không chịu nghe, mà
còn vung tay tát vào mặt vị Giám mục một cái nảy lửa. Mọi người thấy vậy định
phản ứng. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng lại và lặng
lẽ bỏ đi.
Nhiều năm
trôi qua, một vị truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và
xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi ông muốn lấy tên thánh là gì. Ông
đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai
khi tôi đánh ngài”. (Góp nhặt).
Vâng,
John Selwyn đã làm cho một người được biết Chúa không phải do lời ngài giảng,
cũng không phải do tài năng của ngài nhưng là do chính cuộc sống của mình.
Chính cách cư xử tử tế quảng đại, không oán giận, không trả thù đối với một kẻ
đã đánh ngài đã làm cho kẻ đó phải suy nghĩ và rồi cuối cùng ông ta đã trở về với
Chúa.
Và còn một
yếu tố này nữa: Chúng ta không thể tự mình nhận biết được Thiên Chúa. Đức tin
là một hồng ân nhưng không Ngài ban cho. Đôi khi nó có tính cách rất bất ngờ.
anh, bắt
anh phải đọc trọn cả một câu: "Thưa, tôi xin phép rửa để được lãnh nhận ơn
của Đức Giêsu Kitô”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng !
Bấy giờ Chúa ở trong con, vậy mà con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng !
Bấy giờ Chúa ở trong con, vậy mà con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Chúa đã gọi
con, đã gọi thật to và phá tan sự điếc lác, và xua đi sự mù lòa của con.
Giờ đây
con hối hả quay về với Chúa. Xin cho con luôn được ở gần Ngài. Amen.
THỨ TƯ TUẦN 5 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 8,31-42
"Nếu
các ông ở lại trong lời của tôi,
thì các ông thật là môn đệ tôi;
các ông sẽ biết sự thật,
và sự thật sẽ giải phóng các ông."
(Ga 8,31-32)
thì các ông thật là môn đệ tôi;
các ông sẽ biết sự thật,
và sự thật sẽ giải phóng các ông."
(Ga 8,31-32)
Bài Tin Mừng:
Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm
nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do.
Điều giải
thoát họ khỏi nô lệ và được tự do là nghe Lời Chúa để biết Sự Thật, “Sự thật sẽ
giải thoát anh em” (Ga 8,32).
Tạp chí
kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình rất đáng khâm phục của
một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc sống chui lủi, tên cướp
khét tiếng đã ra đầu thú. Trước thái độ hồ nghi của viên công an trực, tên cướp
đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình đã từng bị lực lượng an ninh
tầm nã trong mấy tháng qua. Mặc dầu làm thế nhưng viên công an vẫn tiếp tục
nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp thì dứt khoát không chịu
bỏ đi. Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực mới nhận diện được người
mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua. Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc
chạy trốn. Hằng đêm anh không thể ngủ yên. Dù chỉ là tiếng chó sủa, hay ngay cả
tiếng gà gáy cũng làm anh phải giật mình. Bước vào phòng giam, tên cướp nhìn
vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.
Muốn giải
thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì
điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Có điều như nhà văn
Shakespeare nói: "Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại
tự biết mình dại." Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan.
Có nhiều
người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình
xưng tội, thì họ trả lời “Con chẳng có tội gì”.
Hãy tập
cho mình có thói quen biết nhìn nhận những yếu đuối bất toàn của mình và biết sống
khiêm nhường. Chỉ có cách đó, chúng ta mới có thể có được cuộc sống thanh thản
và bình an, không bị thế gian, ma quỉ và xác thịt quậy phá.
Đời Chiến
Quốc, có vua nước Sở là Chiêu Vương gặp loạn phải trốn ra nước ngoài. Lúc ấy có
người hàng thịt dê tên Duyệt chạy theo.
Khi Chiêu
Vương trở về lấy lại được lãnh thổ, nhà vua tưởng thưởng cho những người đi
theo, trong đó có cả anh hàng thịt dê nữa.
Trong lúc
ai cũng vui mừng nhận lãnh, thì anh chàng bán thịt dê lại từ chối. Anh khiêm
nhường tâu với vua rằng:
- Khi đức
vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay đức vua còn nước, tôi còn nghề bán
thịt dê. Thế là đủ rồi, đâu dám mong thưởng gì hơn nữa.
Chiêu Vương cố ép, người bán hàng thịt dê lại cố từ.
- Đức vua
mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Đức vua lấy lại được
nước, không phải là do công của tôi, nên tôi không dám nhận phần thưởng.
Chiêu
Vương bảo:
- Vậy thì
để ta sẽ đến chơi nhà ngươi.
Người
hàng thịt dê nói:
- Theo
phép nước, người nào có công to thì mới được trọng thưởng, vua mới đến nhà. Nay
tôi tự xét mình không đủ trí mưu giữ được nước, không đủ dũng cảm để làm cho giặc
phải lui. Quân giặc vào nước, tôi phải lánh nạn chạy theo vua, như vậy đâu phải
chủ ý theo vua. Nay vua bỏ phép nước đến nhà tôi, tôi e thiên hạ chê cười
chăng?
Chiêu
Vương nghe nói, ngoảnh lại bảo quan đại phu Tư Mã Tử Kỳ:
- Anh này
tuy làm nghề ti tiện mà giải bày nghĩa lý rất cao. Nhà ngươi làm thế nào mời được
anh ta ra nhận chức Tam Công cho ta.
Thấy vậy
người bán hàng thịt dê nói:
- Tôi biết
chức Tam Công là quý, quý hơn cửa hàng thịt dê, bổng lộc lại nghìn vạn, giàu
hơn tiền lãi bán thịt dê, nhưng tôi đâu dám nhận để nhà vua mang tiếng gia ơn
không phải nghĩa. Vậy xin cứ cho tôi được giữ nghề cũ. Nói xong, người bán hàng
thịt dê lui ngay.
Cầu nguyện
: Lạy Chúa, xin cho con được biết con và biết Chúa, biết con chẳng là gì và biết
Chúa là tất cả để con biết luôn sống khiêm nhường và tin tưởng nơi Chúa. Xin
cho con biết tự hạ, để chỉ nghĩ đến Chúa mà thôi. Amen.
THỨ BA TUẦN 5 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 8,21-30
"Các
ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới.
Các ông thuộc về thế gian này;
còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này."
(Ga 8,23)
Các ông thuộc về thế gian này;
còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này."
(Ga 8,23)
Chúa
Giêsu nói với những người Do Thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các
ông sẽ nhận biết Tôi là ai” (Ga 8,28). Như thế, việc Chúa Giêsu chết trên Thập
Giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được”
đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
Vậy, khi
chúng ta “bị” đau khổ nhưng nếu biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu thì chúng ta
sẽ “được” cứu độ. Ngược lại, ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng
Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn Địa đàng.
Đức Cha
Fulton Sheen, một diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình
Hoa Kỳ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ như sau:
Tôi ra khỏi
nhà để hưởng chút ánh sáng mặt trời, tôi gặp một người đang quằn quại trên Thập
Giá, tôi dừng lại và đề nghị:
- Xin cho
phép tôi được giúp ông xuống khỏi Thập Giá
Nhưng người
ấy trả lời:
- Hãy để
cho tôi yên. Hãy để nguyên những cái đinh trong lòng bàn tay và bàn chân của
tôi. Hãy để nguyên những gai nhọn trên đầu và lưỡi dòng trong trái tim tôi. Tôi
không tự mình xuống khỏi Thập Giá, bao lâu những người anh em tản mác khắp nơi
của tôi chưa hợp nhất với nhau.
Tôi liền
hỏi người ấy:
- Ông muốn
tôi làm gì cho ông?
Người ấy
trả lời:
- Hãy đi
khắp thế giới, và bắt gặp bất cứ ai hay nói với họ rằng: "Có một người đã
chịu đóng đinh trên Thập Giá".
Vâng, có
một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá. Người đó chính là Chúa Giêsu, Chúa của
chúng ta.
Trong thư
thứ nhất gửi cho Giáo đoàn Côrinthô, Thánh Phaolô đã nói về Thập Giá rất hay:
“Thật thế, lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang
trên đà hư mất, nhưng đối với chúng tôi là những người được cứu độ, thì đó lại
là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1Cr 1,18)
Thánh
Phêrô cho biết thêm: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà
đưa lên cây Thập Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời
công chính. Vì Người phải mang những vết thương để anh em được chữa lành.” (1Pr
2,24)
Nhìn
lên Thập Giá, ta có thể thấy rất nhiều điều:
Thấy tội
lỗi của mình.
Thấy tình
thương của Chúa.
Thấy giá
trị của đau khổ.
Thấy ơn cứu
độ.
Thấy giải
pháp cho vấn đề sự dữ
Thánh
Phanxicô Assisi đã nói rất hay về vấn đề này: “Không phải quỉ dữ đã đóng đinh
Ngài trên Thập Giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Ngài vào Thập Giá; và
còn đang đóng đinh Ngài nữa, nếu bạn cứ thích thú ở mãi trong thói xấu và tội lỗi
của bạn.” (T. Phanxicô Assisi, khuyến dụ 5,3).
Trong tuyển
tập ngụ ngôn của hai anh em người Đức vào thế kỷ thứ 19, người ta đọc được câu
chuyện có nội dung như sau:
Hai cha
con nọ đã thỏa thuận ngầm với nhau là người con được tự do làm bất cứ điều gì
nó muốn. Chỉ có điều là mỗi khi nó làm một hành động xấu thì nó phải đóng một
cây đinh vào cánh cửa. Ngược lại, khi làm được một hành động tốt thì nó có quyền
nhổ một cây đinh đi.
Chưa đầy
một năm, cánh cửa không còn một chỗ nào trống để đóng đinh vào được nữa. Người
con chợt nhận ra cuộc sống quá xuống dốc của mình. Nó mới hồi tâm và quyết định
tu sửa. Không đầy một năm sau, mọi cây đinh đều lần lượt được gỡ ra khỏi cánh cửa.
Ngày cây đinh cuối cùng được tháo gỡ khỏi cửa người cha sung sướng chạy đến ôm
lấy đứa con của mình. Ông vui mừng đặt trên trán đứa con những nụ hôn hạnh
phúc. Thế nhưng, thật là lạ lùng, không những đứa con không tỏ ra một cảm xúc
vui sướng nào mà còn đẩy người cha ra và khóc òa lên. Người cha ngạc nhiên thốt
lên:
- Tại sao
con khóc? Tất cả mọi cây đinh đã được nhổ ra khỏi cánh cửa, con không cảm thấy
hạnh phúc vì đã sống tốt đẹp hơn sao?
Đứa con
thổn thức:
- Thưa
cha đúng thế, nhưng cho dầu những cây đinh đã nhổ đi rồi, nhưng chúng vẫn còn để
lại những cái lỗ trên đó.
Trong cuộc
sống, nhiều người trong chúng ta cũng như thế. Chúng ta đã chạy đến tòa cáo giải.
Chúng ta đã tin là Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta
không thể vượt qua được những “Mặc cảm tội lỗi”. Chính những mặc cảm này nhiều
khi dày vò chúng ta. Mỗi lần như thế chúng ta hãy nhớ lại tình thương của Chúa.
Cầu nguyện
: Lạy Chúa, Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin lấy
niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu
thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Mẹ
Têrêxa Calcutta)
THỨ HAI TUẦN 5 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 8,12-26
Đức
Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!
Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
(Ga 8,11)
Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
(Ga 8,11)
Khi Chúa
Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: "Hãy đi, đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11)
thì ít nhất Chúa đã muốn cho mọi người thấy: Chúa tin vào con người. Phương
pháp của Chúa không phải là vạch trần những điều xấu xa và làm cho người có tội
phải cúi sát đầu của mình xuống đất, chấp nhận mình là tội nhân khốn nạn, nhưng
là ban cho tội nhân một cơ hội để họ tự khám phá ra một điều mà trước đó họ
chưa hề nghĩ tới, đó là họ có một khả năng tiềm ẩn có thể giúp họ làm lại cuộc
đời và trở thành những thánh nhân. Chúng ta còn nhớ thật rõ câu chuyện của
Lêvi-Matthêô, của Maria Mađalena, của Augustinô v.v.
Có lần
Chúa đã dạy: "Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán vì anh
em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán lại như vậy"
(Mt 7,1-2). Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha". (Lc 6,37)
Chúng ta
hãy nghe lại Lời Chúa nói với người đàn bà có tội "Tôi không kết tội chị.
Vậy chị hãy đi và đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11).
Vào thời
Vua Henry VII của Anh, ở Luân Đôn nạn trộm cắp thật nhiều. Quan Chương ấn
Thomas More nhận thấy vị thẩm phán già hay khiển trách những người đến khiếu nại
vì bị móc túi ngoài đường, ông quan tòa già quả quyết rằng nếu mấy nạn nhân đó
cẩn thận giữ túi tiền của mình thì làm sao mà mất được.
Nhân
một cuộc họp các thẩm phán, Thomas More bí mật cho gọi một tên móc túi chuyên
nghiệp đang ở tù và dặn rằng:
- Ta sẽ
thưởng cho nhà ngươi, nếu ngươi móc được túi tiền của ông quan tòa già kia.
Tên móc
túi xin phép được tới nói chuyện với vị quan tòa già và đưa tay khéo léo móc được
túi tiền của ông ta rồi hiên ngang về chỗ ngồi .
Thomas More
bấy giờ mới lên tiếng xin các vị thẩm phán làm phúc bố thí cho một người nghèo ở
đó. Vị nào cũng rờ túi tiền của mình. Vị quan tòa già kia giật mình vì không thấy
túi tiền mình đâu nên la lớn:
- Bớ ăn cắp!
Có tên nào ăn cắp túi tiền của tôi rồi!
Thomas
nói:
- Sao?
Ông nói chúng tôi ở đây đã ăn cắp túi tiền của ông sao?
Ông quan
tòa mặt đỏ bừng vì giận. Bấy giờ Thomas More mới gọi tên lưu manh kia và bảo trả
lại túi tiền cho đương sự. Thomas nói với vị thẩm phán già:
- Tôi
khuyên ông hãy bớt nghiêm khắc với những người đã bị móc túi ngoài đường phố,
vì chính ông cũng đã để cho người ta cuỗm mất túi tiền ngay giữa đại hội như thế!
Cầu nguyện
: Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa có quyền xét đoán; xin Chúa hãy đoán xét con
đời này, để tha xét đoán con trong ngày công phán. Amen.
Thứ Tư, 9 tháng 3, 2016
THỨ BẢY TUẦN 4 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 7,40-53
"Nào
Kinh Thánh đã chẳng nói:
Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavid
và từ Bêlem, làng của vua Đavid sao?" (Ga 7,42)
Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavid
và từ Bêlem, làng của vua Đavid sao?" (Ga 7,42)
Càng
ngày, Chúa Giêsu càng phải đối đầu với những nguy hiểm xem ra càng lúc càng mạnh
hơn. Dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nhưng nay thì hoang mang. Các
thượng tế và Pharisêu thì nóng lòng muốn giết Chúa. Nicôđêmô lên tiếng bênh vực
Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Chúa.
Chúa
Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi
“Giêsu là ai?”.
Có lẽ bằng
lời nói, không ai trong chúng ta mà không tuyên xưng và nhận Chúa Giêsu là Chúa
của mình, nhưng trong thực tế của cuộc sống thì hình như giữa lời tuyên xưng và
cách sống hằng ngày của chúng ta vẫn còn một khoảng cách rất khó lấp đầy. rất
nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phần các
con, các con bảo Ta là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các tông đồ, chúng
ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhưng trong thực
tế, thái độ của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta
chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa dám tin tưởng và sống theo lời mời
gọi của Chúa”. (Mỗi ngày một tin vui)
Nhân
chứng
Trong khi
nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ
lập trường, thì Nicôđêmô đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng
ta ngày nay, cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can
đảm như Nicôđêmô không? Dám can đảm làm nhân chứng cho Chúa đó là dấu chỉ của một
con người có niềm tin và là một người nhận Chúa làm Chúa của cuộc đời mình.
Một hôm,
bên Châu Mỹ Latinh, một linh mục cử hành thánh lễ trong vùng “ổ chuột”. Bài giảng
hôm ấy được thực hiện dưới dạng đối thoại với anh chị em tín hữu, nhắm tới sự
giao hòa. Thế là một cậu bé đã tuyên bố:
- Thưa
các nhà thừa sai, chúng con cảm ơn các ngài, vì các ngài đã dạy chúng con yêu
thương kẻ thù. Cách đây một tuần, con đã sắm sẵn một con dao để giết một thằng
bạn mà con vẫn căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giải thích cho chúng con nghe
bài Tin Mừng, con đã đi mua một chiếc bánh kem để tặng cho kẻ thù của con.
Một chủng
sinh trẻ người Liban đã bị giết cách đây vài năm, trên con đường đi về nhà để mừng
lễ Giáng Sinh. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh, huynh đệ tương tàn đang xảy
ra tại quê hương anh. Người ta đọc được những lời sau đây trong di chúc của
anh: “Tôi thấy rồi, mình sẽ bị bắt cóc và sẽ bị giết trên đường để tới làng
tôi. Tôi nói với mẹ và các chị em tôi: Xin mẹ và chị em đừng buồn. Chúng ta sẽ
gặp lại nhau, chắc chắn mà, trong nơi vĩnh cửu trên trời. Con xin mẹ và các chị
em một điều: Xin hãy tha thứ hết lòng cho những kẻ đã giết con. Ước gì máu con
được đổ ra để chuộc được tội cho Liban. Ước gì cái chết của con dạy cho con người
sống bác ái. Xin hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện và yêu thương
các kẻ thù."
Tại vùng
Chouf (một miền thuộc xứ Liban, ở miền Nam Beyrouth), vào lúc cuối năm 1983, em
Maria Khoury đã bị một kẻ cuồng tín bắt, hắn chĩa súng vào gáy em:
- Hãy chối
Giêsu Kitô đi, rồi mày sẽ được sống.
Em trả lời:
- Tôi sẽ
không chối Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Tôi muốn trung thành với các lời hứa khi
nhận phép rửa tội. Anh cứ việc bắn, nếu anh muốn.
Hắn đã nổ
súng. Nghĩ rằng em đã chết, hắn bỏ em nằm đó trên vũng máu. Được cứu, nhưng bị
mù và què quặt, em đã nói:
- Em tha
thứ cho người bắn em, như em đã tha thứ cho người giết mẹ em và cho người đã giết
cha em.
Lạy Chúa
Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy
chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Amen.
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Amen.
THỨ SÁU TUẦN 4 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 7,1-2.10.25-30
"Phần
tôi, tôi biết Người,
bởi vì tôi từ nơi Người mà đến,
và chính Người đã sai tôi.”
(Ga 7,29)
bởi vì tôi từ nơi Người mà đến,
và chính Người đã sai tôi.”
(Ga 7,29)
Cuộc
tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người Pharisêu đã kéo dài rất dai dẳng
nhưng vẫn chưa có hồi kết thúc và xem chừng sự đối kháng càng ngày càng quyết
liệt hơn. Lý do nào đã khiến họ khó tin vào Chúa Giêsu như thế? Thưa, chính là
vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và Đấng Messia của Người. Họ tưởng họ
biết rành Thánh Kinh, biết luật Môisen là đã biết tất cả. Những gì ở ngoài cái
khung hiểu biết đó thì họ đều coi là sai lạc, là từ Satan.
Một lý do
khác nữa khiến các Thượng tế, luật sĩ và Pharisêu muốn tìm cách "hạ"
Chúa Giêsu là vì Ngài là một cái gai, là chứng nhân cho sự thật làm cho họ khó
chịu. Nhiều lần Chúa đã công khai vạch trần những sai trái và những việc làm giả
đạo đức của họ trước mặt dân chúng. Vì sợ uy tín của mình vì thế mà bị giảm sút
nên họ quyết tâm “thanh toán” Chúa.
Những
người Do Thái ngày xưa là như vậy. Ngày nay, nhiều người cũng chẳng khác gì. Họ
cũng muốn dẹp bỏ những người làm họ khó chịu. Lý do là vì những người này không
giống họ, dám nói ra những chỗ yếu kém của họ, có một đời sống tốt hơn họ: Sự
hiện diện của những người này làm họ bị lu mờ! Cái thói ghen ghét ở đời thì thời
nào cũng có. Và cũng vì thói ích kỷ đó mà cuộc sống của con người trên trái đất
này gặp không biết bao nhiêu là khổ đau.
Sáng ngày
19 tháng 3 năm 1994, tại phòng thánh nhà thờ xứ Casandi Pinsepê, gần thành
Napoli miền trung nước Italia, cha Giuse Daiana đã bị sát hại bởi hai phát súng
do bọn bất lương Camara bắn thẳng vào mặt đang lúc ngài sửa soạn cử hành thánh
lễ kính thánh Giuse bổn mạng.
Cha
Daiana là một linh mục trẻ mới ba mươi sáu tuổi. Tuy bị các băng đảng bất lương
đe dọa, cha vẫn hăng say với sứ mệnh tông đồ của cha. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm
1991, cùng với các cha xứ khác trong vùng Casatano cha đã ký tên gia nhập vào hội
quyết tâm chống lại mọi hình thức tội phạm bất lương, nhất là bọn Camara, những
kẻ dã man đang gây tang tóc khắp miền đó.
Trước cái
chết của cha Daiana, trong bài giảng lễ an táng, Đức Cha Lorenso Chiaradinali -
Giám mục giáo phận Avesa đã tóm tắt sứ mệnh tông đồ của Cha như sau: "Đau
khổ và tin tưởng. Một cái nhìn xuống đất nơi thân xác đẫm máu của cha an nghỉ
và một cái nhìn hướng thẳng lên cao nơi có Đấng đã chết trên Thập Giá, nhưng đã
chiến thắng hận thù và sự chết. Môi trường tông đồ của cha đầy khó khăn vì những
hình thức vô luân đồi bại, những tổ chức bất lương và những sức mạnh dã man nấp
sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là sứ mệnh bẻ gẫy xiềng xích của tội ác để
xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công
tác giáo dục đức tin, nỗ lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi của người tha
hương, nâng đỡ tinh thần, an ủi các bệnh nhân, và nhất là huấn luyện tuổi trẻ
qua các sinh hoạt hướng đạo”.
Tinh thần
hăng say và lòng quả cảm của cha Daiana đã cống hiến cho giới trẻ một lý tưởng
cao thượng. Ngài đã biết gieo niềm vui và hy vọng nơi tâm hồn các bệnh nhân, biết
chinh phục thiện cảm của giới trẻ bằng nụ cười dễ mến. Ngài cũng có tài hướng dẫn
tinh thần, làm thay đổi các tâm hồn tận thâm sâu.
Với cái
chết thảm thương của cha Daiana, bạo lực đã chạm tới bàn thánh. Bàn thờ của người
tín hữu được dựng lên để tưởng nhớ cái chết của Chúa Kitô, Đấng đã chấp nhận chết
vì tình yêu nhân loại. Cái chết của một linh mục cũng tương tự như thế. Đức
Thánh Cha Gioan - Phaolô II đã nói về cái chết của cha Daiana như sau: “Như người
công chính bị ngã gục, như tiếng kêu hùng hồn của lời tố cáo tội ác đã bị im bặt,
như ngọn đèn sáng đã tắt lịm đi”.
Cha
Daiana đã chết nhưng cái chết của cha đã không vô ích hay uổng phí. Ngài đã ngã
xuống và được chôn vùi trong lòng đất. Thân xác của ngài chẳng khác gì hạt giống
được mục nát đi để đem lại một mùa gặt phong phú hơn, mùa gặt của công lý, của
an bình và của tình thương. Thật vậy, mấy hôm trước khi bị ám sát, khi trả lời
cho một hướng đạo sinh đến để bày tỏ cho ngài biết về nguyện vọng muốn được
theo đuổi ơn gọi linh mục, cha Daiana đã nói với anh: “Nếu thực sự con muốn trở
thành linh mục, con phải luôn nhớ rằng, con sẽ phải trả giá rất đắt, nếu không
thì con nên gột bỏ ước nguyện đó đi”
Và sau
đó, khi đứng trước thi hài cha Daiana, cậu hướng đạo sinh ấy đã thành thật nói:
"Nếu trước kia tôi còn do dự nghi ngờ thì giờ đây trước sự việc vừa xảy ra
hôm nay và trước cái chết của cha Daiana tôi đã có một xác tín mới: Tôi phải trở
thành linh mục”.
Lạy Chúa,
xin cho con trở nên chứng nhân cho Chúa. Amen.
Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016
THỨ NĂM TUẦN 4 MÙA CHAY
Lời Chúa : Ga 5,31-47
"Có
Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết:
lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật.”
(Ga 5,32)
lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật.”
(Ga 5,32)
Bài Tin Mừng
cho chúng ta thấy, giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái đang có những hiểu lầm
về nhau. Những người Do Thái trước đó đã có thật nhiều cảm tình với Chúa, nhưng
bây giờ họ đã bắt đầu lạnh nhạt. Tuy đã đồng tình với Chúa về nhiều vấn đề,
nhưng khi Chúa đề cập đến vấn đề nguồn gốc thần linh của Ngài thì lập tức, họ
đã phản đối chống lại một cách quyết liệt.
Tại sao lại
có thảm kịch này? Thưa, vì người Do Thái chỉ muốn có một Đấng Cứu Thế hợp với sự
hiểu biết của họ. Như vậy, vấn đề ở đây là, dù có Kinh Thánh nhưng nếu đọc Kinh
Thánh theo ý của ta thì chẳng bao giờ ta có thể thấy và hiểu được Thiên Chúa.
Ngược lại, nếu ta đọc Kinh Thánh dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần thì mới
có thể được Chúa giúp để nhận ra Người.
Như
vậy, muốn đọc Sách Thánh để hiểu được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có
sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì
Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.
Cầu nguyện
: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên thật đơn sơ bé nhỏ, để có thể nghe được
tiếng Chúa nói, và thấy được hiện diện của Chúa trong suốt đời con. Amen.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)